Vong hồn anh linh thiêng, xin về phù trợ cho anh em ráng sống hết
cuộc đời còn lại của mình, nếu không được hào sảng và ngang tàng như anh
thì cũng đừng làm gì ô uế đến thanh danh của những người lính Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa, đừng phản bội anh linh những bằng hữu của mình đã bất
hạnh nằm xuống...
*
Thường thường, những người đã từng mặc
đồ lính thì luôn luôn yêu đời lính. Tôi cũng thế, nhưng tôi chưa hề thấy
một người nào yêu đời lính như ông bác sĩ nhảy dù Tô Phạm Liệu. Anh
Liệu yêu đời lính đến độ, phải mặc đồ dù rồi tròng áo saut vào người thì
rượu uống mới thấy ngon, cử động ăn nói mới thoải mái tự nhiên được...
Những câu chuyện mà anh nói trên bàn rượu, nói tới nói lui, nói đi nói
lại rồi thì cuối cùng cũng trở về lính và tất cả những thứ gì có dính
dáng tới lính. Đủ thứ lính nhưng dĩ nhiên, lính nhảy dù thì nhiều nhất.
Lạ một điều là không bao giờ nghe thấy anh khoe cái nghề tu bíp của
mình...
Những ngày lưu vong nơi xứ người, bác sĩ nhảy dù Tô Phạm Liệu
làm việc cho nhà thương VA ở thành phố Alexandria, tiểu bang Louisiana.
Alexandria là một thành phố nhỏ nằm ở giữa 3 thành phố lớn, thứ nhất là
Houston, thứ nhì là Dallas và thứ ba, nhỏ hơn cả nhưng tình hơn cả là
New Orleans. Điều đáng nói là từ Alexandria đi đến ba thành phố này,
khoảng cách hầu như gần bằng nhau, khoảng 300 dặm...
Có lẽ vì thế,
vào những ngày cuối tuần, ông bác sĩ giang hồ này thường có mặt tại một
trong ba thành phố này nhiều hơn ở nhà. Tuần thì Dallas, tuần thì
Houston và tuần thì New Orleans. Nơi nào cũng có bạn bè của anh, nơi nào
anh em cũng nồng hậu đón tiếp anh, nơi nào cũng hứa hẹn những cơn say
nghiêng ngửa, những trận cười tới đất.
Những ngày anh Liệu xuống New
Orleans, dĩ nhiên, đối với những bạn bè và anh em của anh Liệu như chúng
tôi thì thành phố bỗng trở nên tưng bừng như những ngày hội...
Anh
Liệu thường đến chiều thứ Sáu và tiệc rượu bắt đầu liền, kéo dài sang
ngày thứ bảy, sang đến tối chủ nhật hoặc có khi đến sáng thứ hai, tùy
theo hoàn cảnh...
Tôi không thể nào quên được chiếc xe Van màu xanh
da trời của anh. Xe không cũ, cũng không mới, chỉ chạy được, coi được.
Nhưng nó đưa anh đến tất cả những nơi anh muốn đến...
Lần nào cũng
thế, sau khi dừng xe, anh bước xuống, miệng cười hớn hở và tay thì xách
cái... túi quân trang vào nhà. Anh vào phòng tắm, rửa mặt mày rồi cởi bộ
thường phục ra, tròng bộ đồ hoa rừng của nhảy dù vào người. Tùy theo
thời tiết nóng lạnh, anh có thể thêm chiếc áo saut vào...
Lúc anh trở
ra trong bộ đồ dù, ai cũng thấy mặt mày anh sáng rỡ. Đó chính là lúc
anh sẵn sàng ngồi xuống uống rượu và vui đùa với anh em...
Ai uống
rượu với anh Liệu rồi, đều phải công nhận anh uống rượu rất là dễ
thương. Anh luôn luôn có những mẩu chuyện cười thủ sẵn trong túi mình và
khi cần thì lấy nó ra, kể cho anh em nghe. Nghe xong thì ai cũng ôm
nhau rũ ra mà cười. Cười đến đổ cả rượu, cười đến chảy cả nước mắt...
Nhưng không phải anh Liệu chỉ biết uống rượu. Anh còn bênh vực và lo lắng cho bạn bè nhảy dù của anh. Tôi xin kể lại một chuyện.
Năm
1992, Phan Nhật Nam vừa chân ướt chân ráo sang Mỹ, không hiểu vì một lý
do gì đó, nhà văn chống Cộng nổi tiếng của của quân đội bị thiên hạ
đánh tơi bời trên báo chí và trên internet. Chúng nó bảo anh Phan Nhật
Nam là Việt cộng nằm vùng, là đủ thứ. Khốn nạn thật.
Một buổi chiều nào đó khoảng năm 1992, tôi cùng anh Liệu và một nhóm bạn nhà binh ngồi uống rượu. Tôi bảo:
-Anh
Liệu, ngay cả một nhà văn chống Cộng nổi tiếng như anh Phan Nhật Nam mà
chúng nó còn dám đội nón cối vào đầu thì khốn nạn thật.
Nhiều người bạn lính tôi chửi thề. Người khác, có lẽ cũng bắt đầu xỉn rồi, đòi... bắn chết mẹ chúng nó.
Anh
Liệu chỉ ngồi im, khuôn mặt anh nhăn nhúm lại, đau khổ. Có lẽ anh nghĩ
mình bất lực. Anh trầm ngâm một lúc rồi bảo chúng tôi:
-Tao biết thằng Nam từ hồi còn nhỏ, hai đứa tao cùng ở một nhà, đi học chung một trường. Nó làm sao là Việt cộng được...
-Thì ai lại chẳng biết thế...
Rồi anh bảo:
-Tụi mình phải làm một cái gì cho Phan Nhật Nam. Mình không thể ngồi yên nhìn chúng nó đánh Phan Nhật Nam như thế.
Có người nhát gan, bảo nếu mình bênh PNN thì chúng nó đánh mình luôn sao. Anh Liệu lắc đầu cười:
-Mẹ kiếp, thằng nào muốn đội nón cối vào đầu ông xin cứ tự nhiên, ông đây cóc sợ.
Chúng
tôi ngồi nói chuyện một lúc và bỗng nhớ ra một chuyện. Thành phố New
Orleans hồi đó đã được nổi tiếng là thành phố đầu tiên làm lễ Thượng Kỳ
ngày quân lực tại tòa thị sảnh thành phố. Hôm thượng kỳ đầu tiên có cả
tướng Westmoreland và nhiều nhân vật cao cấp Việt Mỹ đến tham dự. Theo
thông lệ đó, hàng năm, chúng tôi tiếp tục làm lễ thượng kỳ tại tòa Thị
Chính. Mỗi một lần thượng kỳ như thế, chúng tôi thường mời một nhân vật
quan trọng trong cộng đồng Việt hay Mỹ đến đọc diễn văn.
Chúng tôi
nẩy ra ý kiến mời nhà văn Phan Nhật Nam đến đọc diễn văn vào buổi lễ
thượng kỳ năm ấy. Trong bàn rượu hôm ấy vô tình có mặt ông chủ tịch hội
Cựu Quân Nhân tại Louisiana là ông Nguyễn Văn Phú, trưởng ban tổ chức Lễ
Thượng Kỳ. Nghe chúng tôi đề nghị, ông vui vẻ nhận lời ngay.
Nửa
tiếng đồng hồ sau, anh Liệu và anh em nhảy dù còn thêm một tiết mục ra
mắt sách cho nhà văn Phan Nhật Nam sau khi chào cờ vào buổi tối hôm đó.
Mười
lăm năm rồi nhưng tôi còn nhớ lại như mới ngày hôm qua. Ngày hôm đó là
một ngày vui. Thật là vui. Anh em lính tráng khắp nơi đổ về tham dự lễ
Thượng Kỳ. Phan Nhật Nam hiên ngang và dõng dạc lên đọc diễn văn trong
bộ quân phục nhảy dù. Chiều hôm đó là lễ ra mắt sách, và sau đó, chúng
tôi nhập tiệc, nhậu nhẹt gần đến sáng...
Kể từ ngày đó, bọn khốn nạn nào đã đánh Phan Nhật Nam bỗng dưng chùn tay lại và từ từ im tiếng, rút vào bóng tối luôn.
Một
kỷ niệm vui khác về anh Liệu, xin cho phép tôi kể ra đây. Hồi thân phụ
tôi mới sang Mỹ, gia đình chúng tôi làm một bữa tiệc đãi bác sĩ Liệu.
Tuy chúng tôi coi nhau như anh em nhưng khi thân phụ biết con mình quen
ông bác sĩ nổi tiếng Tô Phạm Liệu thì lấy làm hãnh diện lắm, nhất định
phải mời ông bác sĩ tới nhà dùng cơm cho được.
Tiệc vui bắt đầu rất
nhộn nhịp. Thân phụ ngồi ở đầu bàn bên kia, bác sĩ Liệu ngồi ở đầu bàn
bên này, tôi ngồi... kẹt ở giữa một đám anh em, mọi người cười cười nói
nói vui vẻ, chan gắp ào ào, nốc rượu liên miên, tưng bừng vui vẻ...
Đến
một lúc nào đó, giữa bữa ăn, tôi bỗng nghĩ ra một chuyện để chọc bác sĩ
Liệu và có thể đùa với thân phụ một chút. Tôi làm mặt nghiêm trang, rầu
rầu hỏi bác sĩ Liệu giữa bàn tiệc:
-Anh Liệu, anh là bác sĩ, em có
bị chứng bịnh này mà chữa hoài không khỏi, bây giờ gặp ông bác sĩ ở đây,
không biết nói ra anh có thể chữa được cho em không"
Cả nhà tôi khi
nghe như thế, nhất là mẹ tôi và thân phụ nhìn tôi lo lắng, không biết
tôi có bịnh gì mà cả nhà chẳng ai biết. Chỉ có mình anh Liệu có lẽ đoán
tôi sắp sửa đùa giai nên liếc nhìn tôi và cười cười bí mật.
Anh bảo, làm như chẳng biết gì:
-Thì
cậu cứ kể bệnh tôi nghe thử. Nếu có thuốc thì tôi cho, không thì tôi
giới thiệu đến bác sĩ khác chữa cho cậu. Mình ở trên đất Mỹ mà.
Tôi nói, vừa nói vừa làm bộ mặt nghiêm trang, ráng giữ cho đừng cười:
-Anh
Liệu, em bị cái bệnh gì không biết mà đi đâu, hễ gặp... đàn bà con gái
đẹp thì cứ phải quay đầu lại mà nhìn, nhìn mãi không thể nào bỏ được.
Anh có thuốc gì cho em uống cho bỏ cái bệnh... nhìn gái này...
Cả nhà cười rộ lên. Anh Liệu chờ cho tiếng cười lắng xuống rồi mới bình thản trả lời:
-Trời
ơi, nếu cậu gặp đàn ông đẹp giai mà nhìn như thế thì thật là nguy hiểm,
cần phải cho thuốc uống gấp gấp chứ gặp đàn bà con gái đẹp mà nhìn như
thế thì... tốt lắm, chẳng có bệnh gì cả. Thú thật là tôi cũng giống cậu,
gặp đàn bà con gái đẹp là cứ lõ mắt ra mà nhìn. Cậu cứ tiếp tục nhìn
đi, chẳng sao cả...
Cả nhà lại cười rộ lên một lần nữa...
Đấy,
những lần đi uống rượu với anh Liệu, dù ở trong hàng quán, dù ở trong
nhà, hay dù bất cứ ở đâu, anh Liệu cũng tếu và lanh trí như thế cả.
Kiến
thức về y học của anh Liệu như thế nào thì tôi không biết, nhưng kho
tàng tiếu lâm và chuyện đời của anh Liệu thì sâu thăm thẳm, không bao
giờ hết. Hơn thế nữa, hễ nói về nhảy dù thì anh Liệu có thể nói đến cả
ngày mà vẫn chưa hết chuyện. Nhảy dù Việt Nam được thành lập như thế
nào, bắt đầu ra sao, anh kể vanh vách từ ngày thành lập, từng người tiểu
đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng, không thiếu một ai. Không phải chỉ có nhảy
dù Việt Nam mà ngay cả nhảy dù Anh, nhảy dù Pháp, nhảy dù Lê Dương,
nhảy dù Mỹ, nhảy dù Do Thái anh cũng đều biết tường tận, rõ ràng từng
chi tiết. Anh kể tụi SAS (Special Air Service) của Ăng Lê được huấn
luyện kỹ lưỡng như thế nào, bọn SEAL Mỹ trưởng thành ra sao từ đệ nhị
thế chiến v.v...
Ngồi nói chuyện với anh, nếu không biết anh là bác
sĩ thì ai cũng tưởng anh là một nhà nghiên cứu quân sự. Anh là dân bộ
binh mà anh lại biết rất nhiều về phi cơ, từ trực thăng cho đến phóng
pháo phản lực của Không Quân. Không Quân đã rành, Hải quân cũng rành
luôn. Những tàu chiến của Hải quân như tiềm thủy đỉnh, hàng không mẫu
hạm anh cũng biết rành rẻ. Chiếc hàng không mẫu hạm này trọng tải bao
nhiêu, có bao nhiêu mã lực, anh đều biết rõ. Chưa hết, ai muốn biết hỏa
tiễn ICBM của Mỹ tầm bắn bao nhiêu ngàn dặm, mang đầu đạn nguyên tử bao
nhiêu Mega-ton anh cũng cắt nghĩa cho nghe...
Tôi biết anh đã bỏ rất nhiều thì giờ để nghiên cứu những chuyện này vì đó là một đam mê của anh...
Dĩ
nhiên, trong những tiệc rượu, một trong những đề tài mà anh em thường
hỏi anh nhiều nhất là trận đánh đã đi vào quân sử ở đồi Charlie, nơi đã
đón nhận hình hài của đại tá Nguyễn Đình Bảo và đồng thời cũng đưa tên
tuổi anh cùng vài người khác lên hàng những anh hùng của quân dân Việt
Nam qua ngòi bút tuyệt vời của Phan Nhật Nam.
-Ngày tiểu đoàn xuống Charlie, tao đang còn chống gậy vì bị trật chân...
Anh luôn luôn bắt đầu như thế rồi cười khì một phát:
-Mẹ...
tụi tao vừa đi hành quân về, đang dưỡng quân ở vườn Tao Đàn. Bố khỉ,
lính uống rượu say lấy súng bắn chỉ thiên thế nào không biết, ngày hôm
sau tiểu đoàn bị bốc đi. Mẹ, thế là hết dưỡng quân, đành khăn gói lên
đường.
Hôm đó, anh bị trật chân chưa lành, nhảy xuống đồi Charlie còn
phải chống gậy, đi khập khiễng. Nếu anh muốn, anh có quyền xin dưỡng
thương ở nhà nhưng anh không muốn. Anh muốn đi với anh em...
Tiểu
đoàn 11 dù đã bị pháo của Bắc Quân cường tập như thế nào, mọi người đã
biết, nhưng phải nghe đích thân anh Liệu kể mới thấy thấm thía. Từng
giây từng phút một trên ngọn đồi Charlie, quân ta đã oằn oại chịu đựng
những cơn mưa pháo của đối phương. "Mẹ, chúng nó bắn không trật một quả
ra ngoài," anh Liệu bảo thế, mặt hơi nhăn lại.
Một lần, trong một đợt
tấn công, anh Liệu đứng lên khỏi giao thông hào, móc cây Colt .45 của
người y sĩ ra, bắn vào Việt cộng. Ông trung tá cố vấn tiểu đoàn người Mỹ
tên Duffy nhìn thấy. Sau trận đó, ông cố vấn làm một bài thơ tả lại
trận đánh và kể chuyện ông bác sĩ nhảy dù dùng Colt .45 để bắn nhau với
Việt cộng. Sau khi sang Mỹ, ông gởi tặng anh Liệu một tập thơ và anh
Liệu đã đem tặng tôi. Tôi quý tập thơ lắm và gìn giữ như một báu vật.
Bài
thơ của ông trung tá nhảy dù Hoa Kỳ tên Duffy nguyên văn như sau trong
tập thơ Warman, tôi xin copy lại nguyên bản để tặng anh em:
Courage
The Doc have been shot at
Oh, Lord! He has his gun out!
Sighting, Aiming and Shooting
At a cannon with a Forty-Five
He is hit and down
But not for long,
Back up again,
Sighting, Aiming and Shooting
Trying to knock out a cannon,
With his Forty-Five
God, isn't he rediculous"
But he has courage.
Duffy (Warman)
Tạm dịch:
Can Trường
Ông bác sĩ bị bắn
Trời đất ơi, ổng rút cây súng ra
Chuẩn bị, nhắm và bắn
Vào cây đại pháo bằng khẩu 45
Ông bị bắn và té xuống,
Nhưng không lâu
Lại đứng lên trở lại,
Chuẩn bị, nhắm và bắn
Ông gắng tiêu diệt cây đại pháo,
Bằng cây súng 45
Trời hỡi, ông ta thật là nực cười
Nhưng ông ta thật là can trường.
Đọc
bài thơ này của một người cố vấn Mỹ, tôi không ngờ anh Liệu lại can
trường như thế. Điều đặc biệt là anh không bao giờ kể lại sự can trường
của mình. Anh luôn luôn bảo, rất thành thực "Tao chả ngon lành gì, nhưng
người ta sao thì mình vậy."
Một ngày anh Liệu cùng tôi ngồi cưa mấy chai vang của anh đem xuống. Tự nhiên anh nhìn tôi nói:
-Đức
Khổng Tử bảo "Khi tiễn đưa nhau, kẻ tiểu nhân tặng nhau lễ vật, nhưng
người quân tử thì tặng nhau những lời hay ý đẹp." Mày là nhà văn, tao có
cuốn sách muốn tặng cho chú mày."
Rồi anh mở va li lấy tập thơ
"Warman" của ông trung tá cố vấn Duffy đã tặng cho anh, đưa cho tôi. Đây
là một chuyện lạ nhưng tôi lúc ấy tôi không để ý lắm vì rượu đã ngà ngà
say.
Sau này nghĩ lại về tập thơ tôi mới thấy giật mình kinh hãi.
Điềm gở gì đây" Tại sao đương không anh lại tặng cho tôi tập thơ rồi lại
còn kéo ông Khổng về để bảo "Người quân tử dùng lời hay ý đẹp để tiễn
đưa nhau…" Tại sao lại "tiễn đưa." Bình thường, anh Liệu là một người
rất kiêng cử. Mỗi khi sưu tầm được một cái áo saut đẹp, anh lấy tặng cho
tôi nhưng luôn luôn bảo: "Tặng áo là một dấu hiệu của sự chia tay. Tao
bán cho mày cái áo này chứ không tặng. Lấy đưa tao một đô la rồi ra ngồi
uống rượu." Tại sao bây giờ bỗng dưng anh lại tặng cho tôi một tập thơ
quý giá nhất của anh" Tôi cảm thấy có điều gì không ổn.
Thật thế,
lần uống rượu hôm ấy là lần cuối cùng tôi uống với anh. Sau hôm đó, anh
không còn xuống New Orleans thường nữa. Có khi cả mấy tháng anh không
xuống một lần, nhưng xuống là đi ngay, không ghé ai cả.
Tôi không biết chuyện gì xảy ra nhưng tôi nhớ lại một chuyện như thế này.
Hồi
đó, anh Liệu xuống New Orleans thường ngủ lại nhà tôi và một buổi sáng,
sau khi anh đi rồi, vợ tôi vào dọn phòng và tìm thấy một ống Insulin,
loại ống chích dành cho người bị tiểu đường. Vợ tôi ngày xưa làm trong
nhà thương nên biết rõ loại này. Nàng hỏi:
-Ông bác sĩ bạn anh bị bệnh tiểu đường phải không anh"
Hồi đó tôi đâu biết gì, nên lắc đầu. Nàng đưa ống thuốc cho tôi coi và nói:
-Nếu không thì làm sao ảnh lại sử dụng ống chích này. Đây là ống chích dành cho những người bị bệnh tiểu đường…
Chúng tôi nhìn nhau im lặng, không nói gì thêm. Một lúc, vợ tôi phê bình một câu, vô thưởng vô phạt:
-Bị tiểu đường mà uống rượu được như thế thì hay thật.
Năm
cuối cùng và không lâu trước khi anh vĩnh viễn ra đi, một ngày thứ bảy,
tôi đang ngồi viết thì chuông điện thoại nhà reo vang. Tôi nhấc máy lên
và mừng húm khi nghe tiếng anh Liệu trong ống nói. Hình như đã hơn một
năm rồi tôi chưa được gặp anh. Tôi tưởng anh ghé nhậu nên hỏi anh đang ở
đâu, chừng nào đến tôi hay tôi sẽ tới bất chỗ nào đó mà anh đang ngồi
nhậu.
Anh Liệu trả lời, giọng buồn buồn:
-Anh đang ở Phở Hòa ngồi nói chuyện với Thinh và Thắng nhỏ nhưng anh phải đi liền…
Nghe
nói anh ngồi với Thinh và Thắng thì tôi càng mừng hơn nữa vì hai tay
này cũng là dân nhảy dù, cũng là dân bợm nhậu… tới bến. Nhưng những tay
đại hảo hán nhảy dù này gặp nhau vào một buổi sáng thứ bảy, nếu không
nhậu thì để làm gì mà anh Liệu phải đi liền" Chuyện này khó hiểu.
Tôi cực lực... phản đối:
-Anh nói thế nghe không được anh Liệu. Anh không tới đây thì chờ đấy em ra liền…
Anh Liệu ngập ngừng một chút rồi nghẹn ngào cất giọng, buông một câu mà tôi nghĩ là câu nói đau đớn trong đời anh:
-Anh không uống rượu được nữa rồi Nhị ơi...
Tôi hoảng kinh, thở phì ra một phát, ngờ ngợ một chuyện gì kinh khủng lắm đã xảy ra. Im lặng một lát, anh tiếp:
-Anh có chuyện phải ghé qua New Orleans, gọi thăm em chút mà...
Tôi
bàng hoàng đau đớn, hỏi dồn dập. Anh không trả lời, chỉ vắn tắt gởi lời
thăm anh em tôi và gia đình tôi. Thấy anh như không muốn gặp tôi, tôi
không dám ép. Gác điện thoại lên giá, tôi ngồi thừ ra suy nghĩ, thấy
lòng mình chùng xuống, đau đớn vô cùng.
Sau đó, tôi tìm hiểu và nghe
anh Liệu bị bệnh nặng lắm, bụng xưng to lên. Thỉnh thoảng anh vẫn còn về
New Orleans để khám bệnh hay làm gì đó nhưng anh không còn muốn gặp anh
em nữa. Nhiều người không hiểu vì sao nhưng tôi hiểu. Con người của anh
Liệu là hiện thân của sự vui đùa sung sướng. Bây giờ anh không còn vui
được, không còn uống rượu được, hơn nữa, hình hài bị tàn phá, anh không
muốn anh em nhìn thấy anh như thế, sợ anh em buồn. Anh cao cả làm sao!
Rồi
một ngày, anh Liệu nằm xuống. Nơi anh nằm xuống là thành phố
Alexandria, tiểu bang Louisiana. Alexandria là một thành phố rất khiêm
nhường của một tiểu bang khiêm nhường nhất Hoa Kỳ. Alexandria một thành
phố nhỏ nằm hiu quạnh như bị chôn kín giữa những rừng thông chập chùng
bất tận. Alexandria với những người nông dân chất phát quê mùa của miền
Nam nước Mỹ. Alexandria nơi người Việt ở đếm không quá mười đầu ngón
tay. Alexandria, nơi bác sĩ Liệu âm thầm sinh sống và âm thầm hành nghề
tu bíp sau khi đặt chân đến Hoa Kỳ. "Alexandria chả có mẹ gì", anh Liệu
thường nói như thế, cặp mắt buồn buồn. Alexandria, thành phố u buồn ấy,
cuối cùng, đã đón nhận hình hài của một người y sĩ, một người lính nhảy
dù Việt Nam...
Alexandria, hay A Lịch Sơn thành, ngậm ngùi và đau đớn làm sao...
Tô
Phạm Liệu, người bác sĩ nhảy dù, người đã tham dự không biết bao nhiêu
trận đánh lớn nhỏ trong một binh chủng hung hãn và tài giỏi nhất của
quân lực, người đã lê đôi giày trên khắp bốn vùng chiến thuật để bảo vệ
tổ quốc và đồng bào mình, người đã trở thành anh hùng sau trận Charlie,
người mà pháo giặc dù cho hung hãn đến mấy cũng không hề đụng đến được
một sợi lông ở đồi Charlie, người mà cuối cùng, đã đi nửa vòng thế giới
để làm một người tị nạn, người ngày xưa đã chữa trị và cứu sống không
biết bao nhiêu binh sĩ dưới bầu trời lửa đạn, và người bây giờ đem niềm
vui cùng nụ cười đến cho không biết bao nhiêu anh em đồng đội, đã vội
vàng và âm thầm nằm xuống ở một lứa tuổi còn quá trẻ.
Anh Liệu đi rồi, chén rượu bọn em uống bây giờ không còn thấy như ngày xưa nữa, như thiếu thiếu một cái gì...
*
Mùa
hè (lại mùa hè) năm 2005, bão Katrina tàn phá thành phố tôi ở, làm tôi
khăn gói lên đường tị nạn. Tôi lái xe lên hướng bắc, rồi kẹt đường phải
vòng về Tây Nam rồi sau đó lấy hướng đi Dallas. Đoạn đường chỉ có 500
dặm mà tôi lái hơn hai ngày chưa tới vì hàng chục ngàn chiếc xe dồn dập,
chen lấn nhau. Tốc độ trung bình khi nào mau lắm là 30 dặm.
Một
ngày sau vào buổi chiều gần tối, xe đang chạy phom phom trên đường, tôi
bỗng ngạc nhiên khi nhìn thấy tấm biển trước mặt: "Alexandria chào mừng
quý khách." Tiếp theo đó là tấm biển khác đề như sau: "Alexandria Next
Three Exit."
Tôi giật mình và nghĩ đến anh Liệu. Đây chính là nơi anh
đã sống những ngày cuối cùng. Trời về chiều, tôi đưa mắt nhìn chung
quanh, chỉ thấy rừng rậm xanh rì. Tôi nhớ đến cái tên của thành phố nơi
anh ở, thành phố PineVille, tức thành phố những cây thông. Alexandria,
hay A Lịch Sơn Thành, thành phố của anh Liệu. Hồi còn sống, anh thường
đùa với chúng tôi, nói như sau trong những buổi tiệc rượu:
-Biệt hiệu của tao là: A Lịch Sơn Thành, Cuồng Thái Y, Việt Nhảy Dù, ẩm sĩ Tô Phạm Liệu.
Sợ chúng tôi không hiểu, anh cắt nghĩa như sau:
-Này
nhé, A Lịch Sơn Thành tức là thành phố Alexandria, Cuồng Thái Y tức là
bác sĩ chữa bệnh điên, Việt Nhảy Dù bởi vì tao là lính Việt nhảy dù, ẩm
sĩ tức là người uống rượu, Tô Phạm Liệu chính là tao.
Chúng tôi ai
nấy cười rộ. Anh có vẻ khoái cái biệt hiệu này lắm, cứ lập đi lập lại
hoài trong những lần nhậu, ra chiều rất đắc ý về cái tên của mình...
Chiều
hôm đó, một buổi chiều oi bức và một mình tôi trong một chiếc xe hơi
chạy đi trốn bão, tôi cảm thấy nhớ anh vô cùng. Tôi toan ghé vào một
exit nhưng thành phố nhỏ quá, chỉ chớp mắt chiếc xe của tôi đã vượt qua 3
cái ngõ vào. Tôi đi luôn và định bụng, khi hết bão trở về, tôi sẽ ghé
thăm thành phố anh ở.
3 tuần sau cơn bão, tôi quay trở về và lúc lái
xe ngang qua Alexandria thì trời đã tối đen như mực. Tôi quẹo vào ngõ rẽ
và dừng xe ở cây xăng đầu tiên. Tôi xuống xe đi một vòng và chẳng nhìn
thấy gì ngoại trừ bóng đêm dày đặc. Tôi bước vào đổ xăng và tự hỏi lòng
mình, không biết anh Liệu đã dừng xe ở đây để đổ xăng bao nhiêu lần
trước khi anh đi nhậu hoặc khi anh đi nhậu trở về. Anh đã nghĩ gì trong
những lần ấy"
Tự nhiên, tôi thấy nơi anh ở buồn quá. Buồn và cô
quạnh, và không hiểu sao, tôi có thể nói là thê lương nữa. Tôi không
biết anh nghĩ gì trong đầu mỗi lần đứng ở đây bơm xăng. Anh nghĩ gì
không biết nhưng chắc anh phải cô đơn và nhớ bạn bè lắm. Có cô đơn như
thế anh mới phải đi nhiều. Đi nhiều để tìm những trận cười, để nói
chuyện và tán dốc với anh em bạn bè... Đi để tìm lại những vùng trời đã
bị đánh mất.
Sau đó, vì công việc, tôi phải lưu vong về thành phố
Dallas sống, làm một anh cao bồi bất đắc dĩ. Tháng 9 năm ngoái, 2006,
anh em nhảy dù ở Dallas làm lễ giỗ anh Liệu. Tôi đến nơi thấy bàn thờ
anh đã được trang hoàng tề chỉnh, bạn bè đang đứng thành từng nhóm nói
chuyện. Tôi tới trước bàn thờ anh Liệu, tính đốt nhang nhưng nhìn lại,
tôi thấy hình như bàn thờ còn thiếu thiếu một cái gì. Nhìn kỹ hơn, tôi
thấy nhang đèn hoa quả đầy đủ và biết thiếu cái gì liền. Tôi chạy ra xe,
lấy hai chai rượu mình mang theo lễ mễ đặt lên bàn thờ anh.
Một người nào đó lột cái mũ đỏ mình đang đội trên đầu và đội lên tấm hình của anh...
Bây
giờ thì tôi có thể đốt nhang và khấn vái. Tôi niệm với linh hồn anh
đang tiêu diêu ở một nơi nào đó, xin anh về đây chứng dám cho tấm lòng
thành của những người bạn, người em của anh.
Anh ra đi lúc tuổi còn
quá trẻ, để lại không biết bao nhiêu là thương nhớ trong lòng mọi người.
Sinh ra trong thời ly loạn, anh đã mặc áo nhà binh để phụng sự tổ quốc
mình và đã trở thành một anh hùng cho thế hệ chúng tôi. Anh chính là một
Lệnh Hồ Xung của đời. Lệnh Hồ Xung của nhảy dù Việt Nam. Tôi may mắn và
hãnh diện biết bao khi được quen biết với anh, được anh coi như một đứa
em, một người bạn.
Nhà văn Phan Nhật Nam đứng lên tuyên bố lời khai
mạc. Sau đó, từng người một lên nói về anh. Tôi cũng lên, lí nhí vài
lời, kể lại vài kỷ niệm với anh, nhưng không nói được nhiều. Nước mắt
tôi chan hòa.
Mùa Xuân năm 2007, tôi bay sang Santa Anna đi nhậu với
em của anh Liệu, ông Tô Phạm Thái. Trời đất, tôi tưởng ông Thái, em ông
Liệu thì chắc phải biết uống rượu không nhiều thì ít. Nào ngờ, ông ấy
chỉ uống cô ca làm cho tôi… thất vọng vô cùng. Ông Thái cũng có máu tếu
giống như anh Liệu nhưng nói chuyện chẳng biết chửi thề, mặt mũi coi
hiền lành ngoan ngoãn như một ông bụt. Chán bỏ xừ. Hình như, trong thiên
hạ có bao nhiêu bồ rượu thì anh Liệu đã giành uống hết rồi, chẳng để
cho ông em được bao nhiêu.
Chúng tôi ngồi ở một quán phở và tôi nói
chuyện về tập thơ "Warman" mà anh Liệu tặng tôi hôm nào. Tôi bảo anh
Thái đây là một sản phẩm vô cùng quý giá và tôi tự cảm thấy mình không
đủ vinh hạnh để lưu giữ. Tôi muốn hoàn trả báu vật này lại cho gia đình
anh Liệu. Đây không phải là một tập thơ thường mà một tập hồi ký trung
thực viết dưới dạng thơ của một ông trung tá trong quân đội Hoa Kỳ.
Không phải viết bằng mực mà bằng máu và nước mắt của những người lính
nhảy dù Việt Nam…
Đây là một minh chứng hùng hồn về những can trường,
những hy sinh vĩ đại, những uất hận khôn nguôi qua những trận đánh đẫm
máu đến độ kinh hoàng của những người lính Việt Nam, không phải do một
người lính Việt Nam viết mà một người lính Mỹ đã từng phục vụ với những
người lính Việt Nam viết lại. Cuối cùng, đây một thiên hùng sử ca trung
thật nhất dành cho một binh chủng oai hùng nhất của một quân lực cô đơn
nhất, bất hạnh nhất trên thế giới. Một quân lực đã bị phản bội trắng
trợn và bị bỏ rơi dễ dàng...
Con cháu anh Liệu cần có những tài liệu
này làm hành trang cho chúng nó bước xuống cuộc đời. Với tập thơ này,
chúng nó sẽ hãnh diện mà ngẩng mặt lên để nhìn đời, để chiến đấu và để
hy vọng… Một tập thơ nhỏ không thể nào nói lên hết một cuộc chiến bi
hùng kéo dài hàng chục năm với hàng triệu người ngã gục, nhưng cũng nói
lên được một phần nào, dù rất nhỏ, cuốc chiến đấu và sự hy sinh can
trường của cha anh, của một thế hệ…
Thôi nhé anh Liệu. Cuộc đời mà.
Ai trong chúng ta rồi cũng đến một ngày phải chia tay mà thôi. Tử Biệt
Sinh Ly. Sinh ra là chia lìa, chết đi là từ biệt, người xưa đã nói vậy.
Điều quan trọng và đáng kể là ngày xưa anh đã sống một cuộc đời oai dũng
và ngoại hạng. Ngày hôm nay lưu vong trên xứ người, tuy sống âm thầm
lặng lẽ, nhưng anh vẫn giữ được tâm hồn hiên ngang bất khuất, coi rẻ
tiền tài danh vọng, một lòng tận trung với tổ quốc, hết lòng với anh em
bạn bè.
Trên đời này, dễ thử, có bao nhiêu người được như anh, anh Liệu"
Vong
hồn anh linh thiêng, xin về phù trợ cho anh em ráng sống hết cuộc đời
còn lại của mình, nếu không được hào sảng và ngang tàng như anh thì cũng
đừng làm trò gì ô uế đến thanh danh của những người lính Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa, đừng phản bội anh linh những bằng hữu của mình đã bất hạnh
nằm xuống. Vong hồn anh bất khuất, xin trở về phù trợ cho những chiến
sĩ chống Cộng được thành công trong việc quang phục quê hương, lật đổ
chế độ Cộng Phỉ bạo tàn đang làm tan nát quê hương...
Hỡi A Lịch Sơn Thành Cuồng Thái Y, Việt Nhảy Dù, Ẩm Sĩ Tô Phạm Liệu ơi, Trường Sơn Lê Xuân Nhị này thương nhớ anh vô cùng…
Monday, February 29, 2016
Y sĩ nhảy dù Tô Phạm Liệu- Ra đi không mang va li
Cách ðây ðã lâu, lâu lắm, gần 40 năm về trước, mà tôi vẫn cảm thấy như ngày hôm qua, vào một buổi chiều thứ Bảy giữa mùa hè tôi gặp Tô Phạm Liệu lần ðầu tiên ở Colorado, anh ði theo một số bạn bè từ Denver xuống Colorado Springs thãm tôi. Qua Mỹ chưa ðầy một năm, khi ðó vợ chồng tôi còn rách như xơ mướp. Vợ tôi tận tụy, bươn chải, còn tôi ði làm part time ðể dành thì giờ cắp sách ði học thêm ở University of Colorado. Chúng tôi thuê một cãn nhà nhỏ ở gần hồ Prospect Lake, cách thành phố Denver khoảng 75 dặm. Cãn nhà có gian bếp nhỏ nhắn, cũ kỹ, chỉ ðủ chỗ cho hai vợ chồng tôi và ðôi, ba người khách ngồi ãn cơm thanh ðạm là cùng, thế mà bạn bè cuối tuần cứ ùn ùn kéo tới. Cứ tự nhiên như người Hà Nội, như ãn nhà hàng La Pagode (ãn chùa), chẳng cần thắc mắc ðiều chi.
Không ðủ chỗ thù tiếp ðám bạn, có khi lên tới hàng chục người từ xa tới, chúng tôi phải trải tấm vải nhựa xuống mặt thảm giữa phòng khách, chén chú, chén anh, chén thù, chén tạc. Bắt chước người xưa: “Dục phá thành sầu dụng tửu binh”. Cái sầu mất nước, cái sầu bỏ lại vợ con, cha mẹ, bỏ lại bạn bè. Cái sầu phiêu lạc nơi ðất khách quê người, cái sầu ðang ðánh ðấm tưng bừng mà sao bỗng nhiên có những ông xếp lớn chợt nhiên lỉnh mất, sau những câu hứa hẹn chắc như cua gạch là sẽ ở lại chiến ðấu tới cùng . . .
Trong ðám bạn bè hôm ðó có dãm ba người phi công, hai ba chàng hải quân và mấy ông lính nhảy dù. Ðầy ðủ Hải, Lục, Không quân. Mặt mũi tên nào cũng còn trẻ mãng, chỉ mới xấp xỉ ba bó. Trong số ðó có lẽ Tô Phạm Liệu là lớn hơn cả, khi ấy anh khoảng 35 tuổi. So với tụi tôi dù tuổi tác, học hành bằng cấp có phần chênh lệch nhưng anh chẳng hề câu nệ. Không quân và Nhảy Dù như có một cái liên hệ tình cảm ðặc biệt, chỉ sau một vài ly sương sương là bắt ðầu mày tao, chi tớ, coi như là bạn vàng biết nhau từ thuở còn ở truồng tắm mưa. Chúng tôi ngồi uống rượu tới gần sáng, nói chuyện ðời lính, chuyện trên trời dưới ðất, ngậm ngùi nhắc tới bạn bè vắng mặt, khật khù bên ly rượu mắt ngấn ðỏ. Cũng có ðôi khi cười vỡ nhà với những câu chuyện bù khú. Tô Phạm Liệu uống rượu không biết say, nói chuyện không biết mệt, anh thao thao bất tuyệt:
“Tao là lính Nhẩy Dù. Ông về từ Charlie mùa hè ðỏ lửa 72 ðó mày biết không? Tụi mày thả bom ðược ðấy, chì lã́m, A-1 và A-37 mỗi lần ðánh ðề bỏ hết bom và bã́n ðến viên ðạn cuối cùng dù phòng không hỏa tiễn của vẹm bã́n lên như mưa. Tao thấy thằng A-1 bị trúng hỏa tiễn mà thương nó, tàu nó cháy bùng giữa không gian rồi cã́m xuống bên sườn ðồi . . . Hình như cái thằng thiếu úy ðẹp trai, trẻ mãng sắp lấy con gái tiệm ãn Hương Giang gì ở Pleiku thì phải ? . . . Chúng mày ðừng cứ gọi ông là bác sĩ, bác sĩ ðếch gì! Ông là lính nhẩy dù: “Ra ði không mang va-ly, quần áo cứ thế ðút túi . . .”
oOo
Tô Phạm Liệu dáng người khá to lớn, ðẹp trai, trắng trẻo, nói chuyện dí dỏm, có duyên. Khi mới gặp, tôi không ngờ anh là lính tác chiến, Y sĩ trưởng Tiểu ðoàn 11 Nhẩy dù, vì trong ðầu óc tôi vẫn in ðậm hình ảnh những người lính trận phải mang nét mặt sạm nắng, gân guốc, phong trần. Ðâu có ai dáng dấp phong nhã như Tô Phạm Liệu “gươm ðàn nửa gánh, non song một chèo”, bao nãm trấn thủ lưu ðồn ở Vùng II Chiến Thuật, ðầy tâm hồn vãn nghệ, xúng xính thơ phú.
Tuy cùng một tên họ với thi sĩ Tô Ðông Pha làm quan dưới ðời nhà Tống bên Tầu, lừng danh kim cổ với hai bài phú Tiền Xích Bích và Hậu Xích Bích, nhưng ông quan tu-líp họ Tô tên Liệu, dù mê thơ nhưng không có tài làm thơ, ông chỉ thích kể lại thời oanh liệt, chuyện “Tiền ðồn Charlie” và “… Hậu ðồn Charlie”, mà mỗi lần nhắc tới người nghe như cảm ðược nỗi ngậm ngùi trong từng tiếng nói, ðau xót trên từng thớ thịt khi nhắc ðến tên bạn bè.
Ðốc tờ Tô có biệt tài ðọc thơ, ðọc phú, dù thơ phú lượm lặt ở những buổi trà dư tửu hậu, hay tự phịa ra, chẳng câu nệ cú pháp, anh vẫn làm cho mọi người thích thú vì luôn hàm chứa tính hài hước, tiếu lâm. Những lần bạn bè họp mặt có anh là không khí trở nên vui nhộn, sống ðộng, dù các bà khó tính, giữ chồng như giữ của, mặt mũi lúc nào cũng ðăm chiêu, nhãn nhó kinh niên, cũng ôm bụng cười hả hê, cười chảy cả nước mắt, cười bò ra sàn nhà. Và dù ông chồng có mạ̃t lỳ mày lợm có ngồi lại ðụng ly, ðụng chén với bạn bè tới sáng, say ngỏm củ teo, những bà thuộc loại chằng lửa cũng chẳng lườm, chẳng nguýt, chẳng mặt nặng, mày nhẹ, mặt xưng, mày xỉa. Chẳng ðanh ðá chua cay xỉa xói bạn bè.
Trong cái chặng ðường phiêu bạt của cuộc ðời di tản buồn thê lương của người lính chiến buộc lòng rũ áo, một nhóm bạn bè cũ, mới, bỗng nhiên cảm thấy gần gũi nhau, thương nhau hơn. Thương cho thân phận lãng nhách ðột nhiên bị ðẩy vào giữa cái xã hội vàng thau lẫn lộn, bạc tình, bạc nghĩa, ãn cháo, ðá bát, qua cầu rút ván, coi ðồng ðô la to bằng cái bánh tráng. Mấy mợ gặp nhau thì khoe khoang, ganh tỵ: Hột chị nhỏ, hột em to, hột chị tròn, hột em méo, hột em trã́ng, hột chị ðen . . . Trước cái sự lố lãng trong ðời tha phương ðó, Tô Phạm Liệu tức cảnh sinh tình, anh thường châm chọc:
Chồng chị giầu chị đeo vàng, đeo ngọc Chồng em nghèo em nắm chắc con cu Một mai bóng xế trăng lu, Ngọc vàng chị mất mà con cu em vẫn còn.
Anh hay cất giọng cười sảng khoái sau những lần ngâm thơ tiếu lâm như vậy, hoặc những khi nhái thơ ông Nguyên Sa:
Nắng Saigon anh đi mà chợt “rét” Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông “Lụa Hà Ðông 5 ngàn đồng một thước Mà sao em nỡ xé 4, 5 mầu”
Anh vui với ðời sống bình dị, không ðua ðòi, chỉ thích gần bạn bè nhất là những người với anh ðã một thời lao vào lửa ðạn trong cuộc chiến tàn khốc, cố gìn giữ phần ðất miền Nam tự do. Tôi nhớ có dạo anh lên một bệnh viện thuộc một thành phố nhỏ phía bắc Dakota ðể tu nghiệp ngành chuyên môn, nhưng chỉ 3 tháng sau anh bỏ dở, quay về lại Denver. Trước khi anh ði tôi cũng ðoán trước ðược ðiều ðó. Tô Phạm Liệu không thể sống thiếu bạn bè.
Anh cảm thấy thoải mái khi ngồi quay quần, không kiểu cọ, khách sáo giữa ðám bạn thân tình cười nói tự nhiên. Nhưng cũng có ðôi khi tôi chợt thấy anh ngồi thừ người trước ly rượu, mắt nhìn vào bóng tối mông lung bên ngoài khung cửa sổ. Như nỗi ðau buồn nào từ những ngày tháng xa xưa bỗng dưng trở lại mà những ly rượu cay, những tiếng cười rộn rã không ðủ che giấu những vết thương nhức nhối trong lòng. Hình ảnh ðồn Chalie và người anh cả Trung tá Nguyễn Ðình Bảo mà chính tay anh ðã bãng bó trước khi hy sinh, những ðêm bãng rừng lội suối, dìu ðồng ðội bị ðầy thương tích, mà anh nhiều lần nhắc tới, như hiện về trong ký ức. Anh thường cất giọng ngâm bài “Nhớ rừng” của Thế Lữ:
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ, Thủa tung hoành, hống hách những ngày xưa. Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già, Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
………….. Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối, Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan? Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới? Đâu những bình minh cây xanh nắng gội Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng? Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng Ta ðợi chết mảnh mặt trời gay gắt. ……… Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?
Hoặc ðôi khi ðập tay xuống bàn, mắt trợn trừng nhìn vào bóng tối, ngâm bài “Tống Biệt Hành” của Thâm Tâm:
Ðưa người ta không ðưa qua sông Sao có tiếng sóng ở trong lòng? Bóng chiều không thắm, không vàng vọt, Sao ðầy hoàng hôn trong mắt trong?
Ðưa người, ta chỉ ðưa người ấy Một giã gia ðình, một dửng dưng…
Ly khách! Ly khách! Con ðường nhỏ, Chí lớn chưa về bàn tay không, Thì không bao giờ nói trở lại! Ba nãm mẹ già cũng ðừng mong.
……………….
Người ði? Ừ nhỉ, người ði thực! Mẹ thà coi như chiếc lá bay, Chị thà coi như là hạt bụi, Em thà coi như hơi rượu say.
Mây thu ðầu núi, gió lên trãng Cơn lạnh chiều nao ðổ bóng thầm. Ly khách ven trời nghe muốn khóc, Tiếng ðời xô ðộng, tiếng hờn cãm.
Khoảng giữa nãm 1981, Tô Phạm Liệu hành nghề ở một bệnh viện sát biên giới hai tiểu bang Kansas-Colorado. Dù ở cách xa Denver trên 200 miles, nhưng gần như mỗi tuần anh ðều lái xe về Denver, chúng tôi một nhóm bạn bè lại hú nhau tụ tập, chén chú, chén anh, chuyện trò thâu ðêm suốt sáng.
Vào cuối thập niên 1980 anh ðổi ði làm việc ở một bệnh viện cựu chiến binh ở thành phố Alexandria, Louisiana, chúng tôi ít có dịp gặp lại nhau, chỉ thỉnh thoảng gọi ðiện thoại hoặc nhắn tin thãm hỏi. Lần chót tôi gặp lại anh vào mùa hè nãm 1993, anh trở lại Denver thãm bạn bè và ðó có lẽ cũng là lần cuối chúng tôi ngồi chung bàn tiệc với nhau. Sức khỏe Liệu suy sụp một cách nhanh chóng, trông anh gầy hẳn ði vì bệnh gan tàn phá cơ thể. Mùa hè nãm sau, tôi lo lắng gọi ðiện thoại hỏi thãm, giọng anh yếu ớt, mệt mỏi. Tuy vậy, tôi vẫn còn nghe tiếng cười ngạo nghễ từ ðầu dây bên kia: “Tao là lính Dù. Tao không dễ chết ðâu mày. Ông ðếch sợ, ông còn chống cự dài dài, còn lâu ông mới ngỏm”. Tôi hứa sẽ có dịp ghé thãm anh. Anh dặn dò: “Mày xuống ðây tao gọi thằng em LXN, thằng KQ viết vãn của tụi mày ở dưới New Orleans, nó làm ðồ nhậu hết xẩy, thỉnh thoảng vẫn bê lên tao một bao crawfish ngồi lai rai cả buổi. Anh còn thách thức: “. . . Mày ðừng lo, ông bệnh nhưng ông vẫn uống như rồng . . . Sư mày. Xuống ðây. Còn lâu ông mới uống thua mày.”
oOo
Tô Phạm Liệu vĩnh biệt bạn bè ra ði vào giữa ðêm 29 tháng 7, 1997. Tôi không ngờ anh ði mau như vậy. Tôi ân hận mãi vì thời gian ðó phải ði công tác xa nhà liên miên nên không xếp ðặt thì giờ ðể thãm anh ðược.
Thời giai trôi qua như bóng câu, nào ngờ thấm thoát ðã ngần ấy nãm cách biệt. Có những buổi chiều cuối tuần vắng lặng, tôi ngồi một mình, chợt nhớ tới anh, sao cảm thấy trống vắng lạ lùng. Tôi nhớ những chiều thứ Bảy, dáng Tô Phạm Liệu lừng lững trong bộ ðồ hoa dù, chiếu mũ ðỏ ðội lệch trên trán, bước ngang khu sân cỏ trước nhà tôi với một ðám bạn bè, hớn hở cười nói. Tôi nhớ những ðêm ngoài trời tuyết giá, tôi say mèm, người mềm như sợi bún, tửu lượng tôi chẳng thể so bằng Liệu nên thường hay thua cuộc. Tôi nằm trên ghế salon nửa tỉnh, nửa mê, anh ðến gần ân cần ðắp nhẹ chiếc mền lên ngực tôi: “Ngủ ði mày, sáng mai nhậu tiếp. Mẹ…cái thằng dở ẹt, chưa nhậu ðã xỉn”.
Người Y sĩ yêu thương ðồng ðội, người lính Mũ Ðỏ can trường Tô Phạm Liệu: “Ra ði không mang va-ly, quần áo cứ thế ðút túi… ” dọc ngang một ðời chiến ðấu lẫm liệt không sợ hòn tên, mũi ðạn, nhưng số mệnh khã́c nghiệt ðã quật anh nã̀m xuống sau cơn bệnh ngạ̃t nghèo. Anh sớm chia tay bạn bè vĩnh viễn, ra ði chẳng cần hành trang. Ngoài hình bóng người vợ trẻ, ðứa con thơ, chắc chắn anh còn mang theo tình bạn bè, tình chiến hữu, tình những người lính Mũ Ðỏ một thời cùng nhau ngang dọc, ðạp gót bốt ðờ sô lên không gian, coi cái chết tựa lông hồng. Tôi cũng tin rằng nếu khi ra ði mà ðược chọn lựa, anh sẽ chọn chiếc áo hoa dù và cái Mũ Ðỏ ðút túi mang theo, mãi mãi như hành trang quí báu về bên kia thế giới.
Và dù có yên nghỉ nơi nào, nếu còn ðược nghe tiếng phi cơ khu trục bay ngang trời chắc hã̉n anh cũng ðưa tay vẫy chào . . . Vẫy tay chào nhau, những người ðã một thời chiến ðấu hiên ngang, chiến ðấu hết lòng cho phần ðất tự do nhưng phải buông tay trước số mệnh nghiệt ngã của quê hương.
Viết Nhân Ngày Quân Lực VNCH 19 Tháng 6.
Hoàng Gia Viễn
Monday, February 8, 2016
Lời Phát Biểu của một Hậu Duệ VNCH nhân ngày đầu xuân Bính Thân 2016
Kinh thưa các vi trưởng thượng, các bác, các cô chú, và toàn thể quí vị đang hiên diện nơi đây.
Thật
là một vinh dự rất lớn với cá nhân cháu được có mặt nơi đây để trải
lòng mình về những người lính VNCH, những người đã đổ biết bao nhiêu
xương máu trong suốt 20 năm ròng bảo vệ quê hương, nền tự do và cuộc
sống yên bình cho người dân miền nam.
Cháu
tên là Trần Anh Tuấn, cháu sinh ra khi cuộc nội chiến đang trong giai
đoạn kết thúc 41 năm trước. Cháu và gia đình định cư tại Colorado từ đầu
năm 93 khi đó cháu 18 tuổi. Như bao nhiêu người cùng trang lứa, tất
nhiên chúng cháu đã bị nhồi sọ từ lúc còn rất nhỏ về chủ nghĩa xã hội,
về chế độ công sản, họ dạy chúng cháu rằng quân đội VNCH là quân nguỵ,
là tay sai của bọn xâm lược Mỹ… Còn rất nhiều sự dối trá khác mà thế hệ
chúng cháu bi bắt buộc phải học. Chúng cháu không thể thoát khỏi sự tẩy
não của học đường cộng sản. Một học thứ học đường đầy gian dối, một
loại học đường gieo mầm cho cái ác.
Những
hình ảnh ngộ nhận ban đầu của cháu về những người lính VNCH tan dần khi
khả năng suy nghĩ, hiểu... và nhận xét của cháu khá hơn. Cháu đã tìm
hiểu thêm về lich sử, biết rõ thời cuôc trớ trêu đẩy đất nước vào cuộc
nội chiến không đáng có đó. Càng hiểu nhiều hơn cháu bắt đầu ngưỡng mộ,
khâm phục và sau đó là một tình yêu lớn hình thành trong trái tim cháu
dành cho tất cả những người lính VNCH, không phân biệt binh chủng nào.
Cháu xin phép được gọi những người hùng này bằng “Các Anh”, nó như một
lời tình tự gửi đến những người con ưu tú nhất của tổ quôc VN với tất cả
lòng thành của mình.
Thế
hệ của các anh, thế hệ mà tình đồng loại còn mạnh hơn tình yêu đôi lứa,
các anh đã “Xếp Áo Thư Sinh, vui bước đăng trình” khi quê hương bị xâm
lăng. Các anh bỏ lại phía sau những người thân yêu trong gia đình, xóm
thôn, bạn bè, trường lớp, để lại những mối tình ngây thơ trong trắng
như màu áo thời bút nghiêng, để xông pha giữa chiến trường đầy lửa đạn,
máu rơi và chết chóc…
Nếu
không có “Các Anh” ai bảo vệ Saigon tráng lệ, nơi có những đường “cây
dài bóng mát”, có những nữ sinh Gia Long, Marie Curie… duyên dáng, Có
Trưng Vương khung cửa mùa thu. Có tượng đài những người lính Thuỷ Quân
Lục Chiến uy nghi, hùng tráng giữa lòng thủ đô. Cách Saigon không xa,
có tượng đài một người lính ngồi buồn bả trước cổng nghĩa trang quân đội
Biên Hoà, bên trong là những đồng đội anh nằm cạnh nhau trong lòng đất
mẹ, không ai không chạnh lòng mỗi khi đi ngang qua nơi ấy.
Nếu
không có các anh, ai dành lại những xóm thôn, thị thành niềm nam từ tay
giặc cộng sau giao thừa tết Mậu thân, Nếu không là các anh, ai có thể
vừa tay súng chiến đấu, vừa bảo vệ, vừa cứu chữa những em bé, cụ già
thương vong. Hình ảnh của các anh đẹp như những vần thơ, những nốt
nhạc, trong khi quân thù thì vẫn hay bắn pháo binh bừa bải vào khu dân
cư mỗi khi họ muốn tiến chiếm một thành phố đó ở miền nam. Khi không có
các anh, giặc cộng đã thảm sát cả 5000 người dân vô tội ở Huế, không có
các anh, họ tra tấn, hãm hiếp, chôn sống các cô gái, các nữ tu, họ tra
tấn xử tử bất cứ ai họ nghi ngờ, họ thà giết lầm chứ không bỏ sót, họ
mất tính người, trái tim họ khô cằn và chai sạn.
Nếu
không có các anh ai giành lại An Lộc, Quảng Trị, ai gìn giữ Kom Tum,
Pleiku,.. Các anh đã hy sinh thân sống dập tắt ngọn lửa đỏ rực mùa hè
năm 72. Nếu không là sự mất mác hy sinh to lớn này thì tìm đâu ra những
câu thơ như: “An Lộc địa sử ghi chiến tich - Biệt cách dù vị quốc
vong thân”.
Nếu
không là các anh thì ai có thể trở thành nhừng người thiện chiến tầm cở
Navy Seals hoặc Delta Force của quân đội Hoa Kỳ. Vâng, các anh là
những những chàng trai trẻ thuộc Nha Kỹ Thuật của Quân Lực VNCH. Các anh
mỗi toán chỉ 5-7-8 người trong thầm lặng giữa núi rùng, trong lòng
địch. Các anh có lập chiến công, có hy sinh, có bị giặc bắt bỏ tù, tra
tấn cũng không ai biết. Trước khi bị hành quyết các anh vẫn hô vang
khẩu khẩu “Việt Nam Công Hoà muôn năm” cũng không ai hay. Các anh đâu
có cần ai biết những hiễn hách của mình. Các anh chiến đấu cho quê
hương cho những người vô tội ở hậu phương.
Các
Anh là đại tá Hồ Ngọc Cẩn và đồng đội đã bất chấp lệnh đầu hàng 30
tháng 4, chiến đấu tới viên đạn sau cùng đến ngày 1 tháng 5 rồi bị bắt.
Ba tháng sau, 14/8/75 Hồ Ngọc Cẩn và đồng đội bị xử bắn tại sân vận
động Cần Thơ. Trước khi ra đi anh đã nói với kẻ thù rằng: “Nếu tôi
thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án
tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi
cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho sự tự
do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết
tội tôi. Lich sử sẽ phán xét các anh là giặc đỏ hay tôi là nguỵ. Các
anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Nhưng đừng bịt mắt. Đã đảo cộng sản.
Việt nam muôn năm.”. Trước cái chết Anh vẫn toát ra nhân cách của một
quân nhân đong đây sự bao dung, bao dung cả với kẻ thù. Hay từ trong
thâm tâm anh, những người đôc ác bên kia chiến tuyến cũng là nhưng con
người nhưng đã bi chủ thuyết cộng sản tẩy não trở họ thành những người
khát máu và cuồng sát.
Các
anh là những thiếu sinh Quân còn dưới sự bảo quản của nhà trường đã cầm
súng chiến đấu khi giặc từ phương bắc tràn vào vào Vũng Tàu vào ngôi
trường TSQ thân yêu của mình.
Các
anh là Đỗ Cao Trí, Nguyễn Đình Bảo, Nguyễn Văn Dương, Nguỵ Văn Thà.
Các Anh là Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê
Nguyên Vỹ đã tuẫn tiết để khi có lệnh đầu hàng… Các anh là những nhân
chứng sống của tội ác cộng sản, những thương phế binh VNCH, Các Anh là
nhưng chiến sĩ vô danh bỏ mình trên đất mẹ Việt Nam. Các Anh là lịch
sử, Các Anh là bất diệt!
Khi
không có các anh, hàng triệu người chết giữa đại dương, giữa rừng
thiên nước độc, vùng kinh tế mới, trong lao tù của những người cộng
sản. Khi không có các anh, ngày nay gần 90 triệu người dân VN vẫn lầm
thang. Sau lúc quê hương rơi vào tay giặc có gì là độc lập, là tự do,
hoặc hạnh phúc đâu? Chỉ có chia lìa và nước mắt. Chỉ có đói khổ và
tuyệt vọng.
Xương
máu, xác thân của bao nhiêu triệu con người vô tội, những anh hùng của
tổ quốc Việt Nam đã nhuộm đỏ đất đai quê hương rồi sẽ là phù sa, là mầm
chồi cho thế hệ mai sau. Chắc chắn thế hệ trẻ ở khắp năm châu bốn biển
đã lạc mất bầy đàn sau ngày 30 thang 4 định mệnh, một ngày không xa sẽ
tìm về với nhau, chung tay góp sức cùng tuổi trẻ ngay trên quên hương
xây dựng lại tổ quốc VN sau những đổ nát hoang tàn dưới bàn tay những
người cộng sản. Đất nước và người dân Việt Nam rồi sẽ ngẫn cao đầu,
sánh vai với thế giới, sẽ hoà mình vào sự yêu thương, bao dung của giống
nòi, nguồn cội, nơi mà sự thứ tha sẽ bức tử nỗi hận thù. Điều này chắc
chắn sẽ xãy ra như là một lẽ tự nhiên mà không một thứ gì có thể cản
được. Tất nhiên nó sẽ như thế và phải như thế để không phí phạm những
mất mác, những hy sinh vĩ đại các anh đã gánh chịu.
Xin
cảm tạ công ơn tất các anh,. Xin các anh nhận nơi đây sự biết ơn từ
đáy tim của thế hệ sau. Một lần nữa, xin cuối đầu tri ân các anh.
những người lính VNCH.
==== Xin cảm ơn quí vị======
Friday, February 5, 2016
MẶC CẢM CỦA SỰ DỐT NÁT
Bài của Nguyễn Liệu về “cái bằng tiến
sĩ”
Năm 1976, chấm dứt chiến tranh, bác sĩ Tôn thất Tùng, một bác sĩ giỏi, học tại Pháp, kẹt trong kháng chiến, rồi phải phục vụ cho Việt cộng, đã mạnh dạng viết bài báo đề nghị bác sĩ Việt cộng được đào tạo trong chiến tranh, phải thi và học lại. Nếu không học lại hoặc học mà thi không đậu, thì không cho hành nghề vì không đủ tiêu chuẩn của một bác sĩ.
Tôn thất Tùng, một đảng viên cộng sản, cũng phải đợi gần 80 tuổi mới liều mạng nói một sự thật mà đã cắn răng chịu đựng gần hết cuộc đời. Bởi vì chính ông đã chứng kiến đã đào tạo những đảng viên trung kiên, dốt nát trong 6 tháng trở thành bác sĩ y khoa, đáng lẽ phải đào tạo từ 6 năm đến 15 năm sau khi tốt nghiệp trung học.
Tại sao không gọi y tá mà phải gọi bác sĩ. Đó là đặc điểm của ….
Từ ngày có đảng cộng sản Việt Nam, người có học bị xem là kẻ thiếu trung thành, kẻ phản bội, cho nên lãnh tụ Mao trạch Đông quá mặc cảm dốt nát đã nói thẳng thừng “Trí thức không bằng cục phân”. Câu nói đó trở thành một nguyên lý cho đám cán bộ lãnh đạo cộng sản. Câu nói của Mao trạch Đông đó làm cho người lãnh đạo cộng sản tự tin rằng mình có giá trị, có bản lĩnh, có đạo đức cách mạng vô sản, vì mình không phải là trí thức, tức mình hơn cục phân. Nhiều lần tôi đã nói, nếu Hồ chí Minh là một trí thức như cụ Phan châu Trinh, như Nguyễn thế Truyền,… thì không bao giờ được làm bí thư của đảng cộng sản Đông dương. Thiếu bằng cấp, dốt nát, là một lợi khí tốt để cho Hồ chí Minh bước lên nấc thang lãnh đạo đảng cộng sản.
Tôi, người viết bài này, đã chứng kiến trước mặt, cái cảnh thê thảm của người lỡ có bằng cấp, muốn được đảng tin không biết làm sao xóa bỏ cái lỡ hiểu biết của mình. Cố nhiên họ một mặt không dám đọc sách, nhất là sách ngoại ngữ, vì giai cấp bần cố nông, bọn ăn mày ăn xin ngoài chợ, không làm chuyện đó. Hình thức thì có phần dễ, họ ăn mặc rách rưới, để thân thể cho dơ dáy, ngồi cạnh họ phải có mùi hôi của dân lao động chân chấm tay bùn. Ngôn ngữ rất khó, họ sợ hai chữ lãng mạn của lớp tiểu tư sản. Ví dụ họ không dám nói “ trăng đẹp, hoa hồng đẹp, Tây Thi đẹp …” mà thường nói cho nhiều người nghe “ đống rơm của bác đẹp quá, các luống cày đẹp quá, hố ủ phân tuyệt đẹp. Bác (Hồ chí Minh )cầm cây cuốc đẹp quá, chú Đồng nhỗ cỏ đẹp quá…chị nuôi bản lĩnh quá, đẹp quá, chị du kích đứng gác đẹp quá v.v…Bởi vậy Chế Lan Viên mới viết “ Một lỗ hầm chông đẹp hơn vạn đoá hoa hồng”, Tế Hanh viết “ Năm nay anh trồng cây bưởi góc nhà”. Tôi chắc chắn trên 100% những người có học, không cần nhiều, cỡ lớp đệ tứ niên ngày xưa trở lên, nếu kẹt trong chế độ cộng sản từ 1945 đến 1975 đều ít nhiều phải đóng kịch như thế ( Các thầy Hoàng Tuỵ, Lê trí Viễn, Nguyễn thiện Tụng, Phan Thao ( con cụ Phan Khôi) Trần tế Hanh……đã qua thời kỳ cố lột xác như thế. Nếu không lột xác thì không được vào đảng)
Từ chỗ học tập làm cho giống lớp bần cố nông để vào đảng, nay cũng những cán bộ đó học tập làm cho giống lớp tiểu tư sản, lớp có tiền, lớp trí thức.
Bắt chước cách ăn mặc của lớp tiểu tư sản thì dễ, chỉ cần trước hết, liệng ném cái nón cối, bỏ hẳn đôi dép đế xe hơi gọi là đôi dép bác Hồ (đế xe hơi làm đôi dép nguyên là của cu li kéo xe, người đổ thùng cầu tiêu,… họ quá nghèo, không có tiền mua đôi giày, nên lượm đế xe hơi bỏ làm giầy, và những người này là trung kiên của đảng cộng sản, là cán bộ lãnh đạo đảng cộng sản sau đó. Cụ Hồ bắt chước họ, cho giống họ, nên dùng đôi dép đó chứ Hồ chí Minh không sáng chế ra đôi dép đó, thế mà gọi là dép bác Hồ bác cũng nhận bừa, không cần đính chính, đó cũng là tính chất của…).
Họ, cán bộ cộng sản, xa lánh ngay lớp bần cố nông nghèo đói. Ngày trước cán bộ cộng sản nếu kể lai lịch cha mẹ ông bà có người đói, người làm mướn, người ăn xin ăn mày, thậm chí có người chết đói, thì họ rất hãnh diện vì họ thuộc thành phần tốt nhất, vô sản nhất, lành mạnh nhất, trung kiên nhất. Ngày đó nếu cán bộ nào có cha mẹ, bà con, ông bà, là người khoa bảng, làm quan, thì xem như kẻ phản bội. Bởi vậy dù cố gắng tới mức nào, Phạm Tuyên con quan thượng thư Phạm Quỳnh, Bùi Tín con cụ thượng thư Bùi bằng Đoàn, Hoàng Tụy con cháu tướng Hoàng Diệu , nhiều lắm là làm nhạc sĩ , làm báo, làm giáo sư khoa học, không bao giờ được vào hàng ngũ cán trung kiên của đảng.
Từ ngày họ bắt chước người tiểu tư sản người trí thức thì họ cố tập cho ra lớp người này. Về ăn mặc, nói năng, kiểu cách ăn chơi, tiêu tiền, lễ nghi v…v.. dù sao cũng dễ bắt chước nhất là bắt chước sự ăn chơi sa đọa thì rất dễ. Nhưng bắt chước có trình độ hiểu biết thì thật là khó, gần như vô vọng.
Để khắc phụ sự khó khăn đó, đảng chủ trương cho học tại chức, học không cần đến trường, học không cần đọc sách, học không cần làm bài, và một năm có thể ghi danh vài ba lớp. Phải cần 12 năm để học hết trung học, đảng cho học hai năm hết trung học. Bằng cử nhân bằng tiến sĩ cũng vậy cũng học tại chức.
Phe chiến thắng mà bị dân chúng chê dốt, đó là điều đau khổ nhất của Việt cộng. Đó là lý do bằng tiến sĩ mọc lên như nấm. Thêm vào đó, phong trào thi đua tham nhũng phát triển mạnh. ‘Ngành ngành tham nhũng, người người tham nhũng’, thì bằng cấp không cần ghi danh chờ thời gian nữa, mà có ngay, nếu có số tiền qui định.
Cán bộ cộng sản, nhà cửa có rồi, xe cộ có rồi, tỳ thiếp có rồi, bỏ nón cối, bỏ áo lãnh tụ, bỏ đôi dép Bác Hồ, ăn mặc kiểu tân tiến, kiểu Mỹ, tiệc tùng, uống rượu, cà phê, uống trà, nhảy đầm, theo kiểu bọn quí phái phong kiến ngày xưa….Nhưng còn thiếu trình độ học vấn để nông dân, dân lao động không khinh bỉ “dốt mà làm sang” nên phải có mảnh bằng. Đã mua thì chịu tốn mua thứ cao nhất tốt nhất, và do đó bằng tiến sĩ đảng bán đắc như tôm tươi.
Tôi hoàn toàn đồng ý với đảng cộng sản ồ ạt sản xuất bằng cấp để đánh tan thành kiến “cộng sản là bần cố nông”. Trước năm 1954, dân chúng ở Quảng ngãi có ý khinh thường đám cán bộ đảng thường nói “ bọn bcn, tức bọn bần cố nông”. Không riêng gì ở Việt nam ở Cuba, Bắc Hàn ngày nay tiến sĩ bác sĩ đầy đường đầy sá, không làm gì cho hết. Bởi vì học rút ngắn thời gian, hạ thấp chương trình, và ưu tiên cho đảng viên không có thì giờ đi học và không biết chữ, hoặc biết sơ sơ, nhưng cần có bằng tiến sĩ.
Để khỏi gây tác hại cho dân chúng, tôi đề nghị, đảng không nên khuyến khích đảng viên cán bộ đảng nhận bằng tiến sĩ về y học, khoa học. Vì hai loại này có thể đưa đến chỗ giết người vì không thực học.
Tôi còn nhớ rất rõ năm 1984, ra khỏi tù tôi về Saigon. Con tôi bị sốt tôi nghi là sốt xuất huyết tôi đem vào bịnh viện nhi đồng. Theo lời khuyên chân thành và khẩn cấp của dân chúng, tôi thức trắng đêm bên giường bịnh, để canh chừng bác sĩ. Lúc đó bịnh viện Sài gòn có hai loại bác sĩ, một loại của chế độ cũ còn lại, một loại tập kết mới về, loại bác sĩ Tùng đã cảnh báo cho dân chúng biết. Tôi canh chừng nếu bác sĩ tập kết về khám bịnh hoặc chích thuốc cho con tôi, thì lập tức tôi cản không cho, và tôi cũng canh chừng nếu đứa nhỏ không sống được tôi phải bảo vệ xác chết của nó cho được toàn vẹn, đó là lời khuyên của đồng bào miền Nam.
Cấp bằng tiến sĩ không gây tác hại cho dân chúng, nên chọn những loại như văn chương nghệ thuật, phong tục, v..v… càng viễn vông càng mơ hồ càng tốt. Tôi rất phục TÔ HUY RỨA, TIẾN SĨ DỐT NHẤT Ở VIỆT NAM biết thân phận mình nên không chọn tiến sĩ y khoa hay tiến sĩ cầu cống, cũng không chọn tiến sĩ kinh tế, tiến sĩ luật, tiến sĩ giáo dục … vì những thứ này dễ lòi đuôi chuột khi đụng đến thực tế. Ông chọn tiến sĩ “ xây dựng đảng”, không làm hại người nào.
Đảng nên xem bằng tiến sĩ như phẩm hàm cửu phẩm bát phẩm ngày xưa triều đình cho các viên chức đúng tiêu chuẩn. Những chức này không làm hại người nào, chỉ để gọi danh xưng mà thôi. Người ta thường gọi tiến sĩ về ngành gì ví dụ ông Nguyễn văn A tiến sĩ kinh tế, ông Nguyễn văn B tiến sĩ toán học v..v….
Những tiến sĩ này vô hại nên phát cho đảng viên:
- Tiến sĩ văn chương thơ Bác,
- Tiến sĩ ca dao kháng chiến,
- Tiến sĩ mưa phùn gió Bấc,
- Tiến sĩ cá thài bai,
- Tiến sĩ buổi chiều vàng,
- Tiến sĩ đồng lúa chín…..
Tôi ví dụ như
vậy để các ông tiến sĩ không làm cho dân chúng lo lắng. Bởi vậy khi tôi nghe
đảng ra quyết tâm phấn đấu trong 10 năm nữa sẽ đào tạo 20 ngàn tiến sĩ, tôi tin
tưởng việc này đảng làm được và làm hơn có thể đưa lên gấp 10 tức 200 ngàn tiến
sĩ.
Nguyễn Liệu
Nguyễn Liệu
Tuesday, February 2, 2016
MỘT NGÀY VỚI MÙA XUÂN HÀ NỘI
I. Tôi sinh ra, và
lớn lên, tại Nha Trang. Gia đình bên ngoại gốc “Nhe Treng”
rặt, và bên nội, gốc Quảng Trị, cũng rặt. Bởi vậy, anh em tôi trong nhà nói một
thứ tiếng lai căng, ở trường học không nói tiếng Việt, nên ra ngoài không có
cái giọng, kiểu “chu che bữ nê mềnh lợi eng cuôm
dí ké nữ” (dịch nghĩa: Chu cha bữa nay mình lại ăn cơm với cá
nữa) cố hữu của dân địa phương thứ thiệt, như mấy đứa bạn cùng xóm. Rồi sau năm
1954, người Bắc di cư vô Nam nói, ôi thôi, đủ thứ tiếng Bắc kỳ, nghe rất mệt
tai. Trong số, tôi chỉ chấm, và mê, tiếng hát mượt mà, đài các, phát âm chuẩn
xác của những nữ ca sĩ chính gốc Hà Nội, như Kim Tước, Thái Thanh, Mộc Lan, Tâm
Vấn, và những minh tinh, như Kiều Chinh, Mai Trâm. Tất cả những mỹ nhân một
thời ấy đã mang theo vào Miền Nam dáng vẻ thanh lịch và giọng nói quý phái từ
Hà Nội cổ kính, và cố đô Thăng Long ngàn năm văn vật.
Hà
Nội mà tôi chưa bao giờ được thấy, nhưng biết qua thơ văn nhờ hồi đi lính bắt
đầu đọc những tiểu thuyết tiền chiến và những tạp chí của mấy ông nhà văn nhà
thơ Bắc kỳ di cư. Nhất là nghe những ca khúc đương thời thương về Hà Nội. Trong
đó có một câu, trong một bài, mà ông cậu ruột mười sáu tuổi, em út của mẹ tôi,
nghĩa là dân Nhe Treng đặc sệt, cứ âm ư mãi, riết rồi thành lố bịch: “Tôi xa
Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu…” Lố bịch là phải, bởi lẽ không ai
có thể gây xúc động mạnh lên trái tim thính giả trong những bài hát nhớ Hà Nội
cho bằng những nhạc sĩ, ca sĩ di cư chánh hiệu Hà Nội của thời trước 1975.
Quả
vậy, Trịnh Công Sơn,
tên nằm vùng phản chiến, gốc Huế, sau 1975, muốn lấy điểm với chế độ mới, cũng
bắt chước viết hai ca khúc về Hà Nội, nhưng không hay bằng, vì cảm
xúc, nguồn hứng rất giả tạo, và hình ảnh rất ước lệ, khuôn sáo: cũng vẫn là Hồ
Tây, cũng mùa thu mây bay, cũng mùi hoa sữa, cũng cây bàng lá đỏ… Chưa kể, câu
kết, trong bài “Nhớ mùa thu Hà Nội”, “Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội / Nhớ đến một người để
nhớ mọi người”, muốn nhắn gửi gì đây? Chưa vội chụp nón cối, người ta phải thắc mắc: Mùa thu nào?
Tổng khởi nghĩa 1945 ư? Một người nào? Đồ tể Hồ Chí Minh, với khẩu hiệu “mình vì
mọi người, mọi người vì mình”, mà các tù binh cải tạo đã phải nghe lải nhải
hoài, phát ớn đến tận cổ?
II. Hà Nội, tôi đã thấy, đã nghe,
đã gặp một lần, vào tháng 4 năm 1983. Cách đây ba mươi hai năm. Không như một
du khách, hay một Việt Kiều yêu nước. Mà như một tù binh cải tạo. Đúng ra gặp
hai lần.
Lần
đầu, cuối năm 1975, một cách chớp nhoáng, bất đắc dĩ. Tại bến cảng Hải Phòng,
tôi được bốc từ tàu Sông Hương ra và tống lên xe lửa, chực sẵn để chở, cùng với
hàng trăm ngàn đồng đội, lần lượt, đến các trại giam vùng biên giới, Sơn La,
Hoàng Liên Sơn, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Cổng Trời… Khi đoàn tàu đi ngang
Hà Nội, chắc quá nửa đêm, tôi cố nhướn mắt nhìn ra bên ngoài, từ song cửa sổ
hẹp. Tàu chạy nhanh, trời lại tối, và đèn đường leo lét, chỗ có chỗ không, nên
tôi không thấy gì cả, ngoài một Hà Nội còn đang ngủ say, phố xá lặng thinh,
sương rơi lả tả, và những hàng cờ đỏ sao vàng giăng mắc, ủ rũ, trên những góc
phố. Làm nhớ đến hai câu thơ oan nghiệt –đã bóp chết đời tác gỉả,
Trần Dần: Tôi bước đi, không thấy phố,
thấy nhà / Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ… Rồi tàu rẽ lên cầu
Long Biên, khá dài. Tôi thấy hai bên đường sắt vài người dân đi bộ hay đạp xe,
không biết về đâu, co ro trong chiếc áo tơi thô sơ. Trên sông, vài chiếc thuyền
câu đậu bến im lìm.
Lần thứ
hai, lần này, tám năm sau, được tiếp xúc với Hà Nội lâu hơn, đúng một ngày,
nghĩa là mười hai tiếng đồng hồ. Quả thế, một buổi sáng đẹp trời, tại trại giam
Vĩnh Phú, K1, đang chuẩn bị đi lao động, tôi nghe đọc tên mình được thả –áp
chót trong danh sách một trăm mười người thuộc tất cả các trại Miền Bắc, mà
Vĩnh Phú chiếm nhiều nhất: có bốn mươi tên trúng số độc đắc,
trên toàn năm K, trong khi ở một số trại, nhỏ hơn, chỉ có vài mạng thôi. Tôi
ngạc nhiên, không biết tại sao mình lại được thả, nhưng chắc chắn không phải vì
công đức cải tạo tốt, trái lại. Thây kệ, tôi tự nhủ, thắc mắc làm chi. Vội vàng
về “buồng” (phòng), vì chỉ được mười phút sửa soạn tư trang. Không có gì, ngoài
bộ đồ tù đang mặc trên người, và mùng, mền, khăn mặt, bàn chải đánh răng, một
bịch đường táng đen, một gói bánh mì khô, hai hộp sữa đặc, và một mớ thuốc cảm,
đau đầu, đầu bụng, để dành từ những lần thăm nuôi trước. Tôi tặng hết đồ ăn và
thuốc men cho những anh em, lúc ấy, khai bệnh nằm nhà.
Rồi
tất cả lội bộ xuống K5, tức K chỉ huy, cách khoảng 15 km, để làm thủ tục xuất
trại. Tại đây, được trả lại quần áo “dân sự”, đồng hồ, và tiền bạc bị “đăng ký”
để “Cách mạng giữ hộ” khi bước chân vào trại tù đầu tiên, ở Miền Nam. Không
biết đủ, thiếu thế nào, vì sau tám năm, không nhớ và điều đó không quan trọng
nữa. Tù binh được thả sinh hoạt tại một buồng riêng, không được “quan hệ linh
tinh” với các cải tạo viên khác.
Khoảng 10 giờ sáng hôm sau, chúng tôi trút bỏ bộ đồ tù, mặc lại quần áo cũ, có
anh diện giày da thay dép râu. Ai nấy mặt mày tươi rói, đẹp trai hẳn ra, như
dưới chiếc đũa thần của một bà tiên, không còn hốc hác, bèo nhèo như dạo nào,
nhất là sau mấy ngày được vỗ béo, ăn no ngủ kỹ. Được xe trâu chở ra tận bến phà
trên sông Hồng. Sau hơn nửa giờ, cập bờ Ấm Thượng. Ở đây, phải chờ đến 10 giờ
đêm mới có chuyến xe lửa từ Lào Cai đến “rước” về Hà Nội. Đi theo có hai cán
bộ. Hai tên này, bình thường thuộc loại hắc ám, bữa nay có vẻ dễ dãi, chắc vì
được dịp đi chơi Hà Nội hoặc tin rằng không thằng tù binh nào được thả lại dại
dột âm mưu làm điều “phản động”. Để giúp thời gian qua mau, chúng tôi tụm năm
tụm ba nói chuyện, cười đùa rổn rảng, hoặc mua bún, bắp luộc, xôi vò và bánh
gai của các bà và em bé bán hàng rong tại chỗ –đã quá quen thuộc với những đợt
thả tù binh. Nghe nói Ấm Thượng có đền thờ Hùng Vương, tôi và một anh bạn xin
phép đi viếng, nhưng cán bộ bảo xa lắm, không cho. Trời hơi nóng, tôi bèn cởi
áo quần nhảy xuống sông tắm. Nước phù sa đỏ ngầu, nhuộm cả ra quần đùi mới,
trắng tinh. Lội ra xa, thấy sóng lớn quá, sợ bị cuốn đi, chết uổng mạng, tôi
bơi vào, lên bờ nằm nghỉ, phơi nắng, đợi xe lửa.
III. Ấm Thượng không xa Hà Nội bao
nhiêu, trên dưới 100km, mà ì ạch mãi đến 8 giờ sáng hôm sau, tàu mới đến ga
Hàng Cỏ, sau khi dừng lại nhiều trạm dọc đường. Đám tù phải đợi đến 8 giờ tối
mới có chuyến tàu Thống Nhất vào Sài Gòn. Hai tên cán bộ điểm danh, và bắt tất
cả “tập trung” ở một góc nhà ga, dặn không được đi đâu xa, “vì các anh chưa
được phát giấy ra trại”. Ga tấp nập hành khách và bộ đội chờ đi các tỉnh phía
Bắc, và rất đông “gian thương” (buôn bán chui) lượn tới lượn lui, rình mồi,
nhiều nhất là những người mua đi bán lại quần áo, vai vác bao tải to kềnh,
trông như một cảnh chợ trời, sau 30 tháng 4, 1975 tại Sài Gòn. Tất cả đều quay
nhìn chúng tôi, biết ngay là đám sĩ quan tù binh cải tạo từ biên giới được thả
về Nam, với cặp mắt tò mò, hoặc cảm thông. Một vài thanh niên, thiếu nữ còn dạn
dĩ, đến bắt chuyện, hỏi về “quân hàm” (cấp bậc) của anh em, và xuýt xoa với
nhau: “Ghê nhỉ! Trông trẻ thế mà đã là đại úy, thiếu tá cả, gần
mười năm trước cơ đấy!”
1) Các cô, các bà mua bán chui thấy một số tù
binh, trong đó có tôi, mặc quần jeans, mà họ gọi là “quần bò”, liền sà
đến, gạ mua. Một cô, khá xinh, mồm dẻo kẹo, chỉ vào cái quần xanh, bạc màu, bụi
đời (càng bụi càng có giá, cô nói) của tôi, và bắt đầu dụ, ngon lành:
- Ông
anh bán cái quần bò này cho em nhá!
Tôi
giật mình, khoát tay:
- Đâu
được cô! Hiện giờ tôi chỉ có mỗi cái quần này trên người, bán cho cô, lấy gì
mặc?
Cô
vẫn nài nỉ:
- Thì em đổi rẻ cho anh cái quần tây
thường khác.
Tôi
vẫn lắc đầu. Rồi cặp mắt thiện nghệ của cô bỗng rà lên khắp châu thân tôi, như radar,
ngừng trên chiếc áo pull trắng, cổ cao, tôi đang mặc, tuy còn mới, nhưng
sau tám năm “biệt giam” trong nhà kho kín mít, đã ngả sang màu vàng nhạt, và thoang
thoảng có mùi mốc, pha lẫn với hương nách cũ, chưa kịp giặt, bay ra… khá nồng.
Cô lên tiếng tán, ngọt xớt:
- Hay là ông anh bán cái áo này cho
em!
Trong
túi xách tôi còn một áo sơ mi xanh, nên đồng ý bán. Cô ta trả giá 3 đồng. Tôi ngồi im re. Từ hồi cha sanh mẹ đẻ đến nay, tôi có đem áo
quần đi bán bao giờ đâu, làm sao biết giá cả? Một bà già, hàm răng đen láy,
ngồi cạnh cô bỗng lớn tiếng nói: “Ối giời, chỉ có quân ăn cướp ngày mới giả cái
giá đó. Tôi giả 5 đồng đấy, cậu bán, tôi lấy ngay!” Tôi lại càng phân vân, chưa
biết xử trí thế nào thì cô nọ liếc xéo bà kia: “Tôi tăng lên 10, mụ già nhà quê
Quảng Ninh có theo nổi không nào?” Nghe hai người sừng sộ với nhau, đám tù binh
và cả tên cán bộ xúm lại, xem màn bán đấu giá “đột xuất”, càng lúc càng hấp
dẫn. Một anh thiếu tá đồng tù đập đập tay xuống thềm xi măng, hỏi: “Mại dô, mại
dô. Có ai trả thêm nữa không?” Bà già cười khẩy: “Tôi giả 12 đồng đấy, con nặc
nô Hà Tĩnh có ý kiến gì không nhỉ?” Cô gái tức khí, đáp lễ: “Tôi trả thêm 3
đồng, tổng cộng 15, mụ già nhà quê Quảng Ninh thấy thế nào?” Cả đám vỗ tay rào
rào, tên cán bộ cũng cười. “Mụ gìà nhà quê Quảng Ninh”, cuối cùng, chịu không
thấu, bỏ cuộc. Anh thiếu tá chỉ vào “con nặc nô Hà Tĩnh”, phán: “Không ai trả
thêm nữa, tôi khóa sổ nè và long trọng tuyên bố rằng cô em gái Hà Tĩnh này được
trúng tuyển mua áo pull của anh trai đại úy tù binh ngụy Vĩnh Phú, với giá 15
đồng chẵn, không bớt xu nào”. Cả đám, tù cũng như dân, ôm bụng cười lăn. Tiền
trao áo múc, tôi bèn cởi ra ngay tại chỗ, giao tận tay cho cô. Vào thời
điểm đó, 15 đồng là món tiền phải chăng, vì giá một tô phở khoảng 7 đồng, một
ly bia 3 đồng. Tổng kết, có hai mươi tù binh “bị” mua áo, mua quần trong buổi
sáng đó. Đủ tiền bát phố Hà Nội trong một ngày.
2) Bất ngờ có tiền phụ trội trên trời
rớt xuống, cộng vào món tiền khiêm tốn được trại trả lại, tôi bỗng nổi hứng,
đóng vai trưởng giả học làm sang: tắm nước nóng. Phòng tắm kế bên sân ga, thấp,
nhỏ, mái tôn và vách lợp bằng tre đan. Trên cửa, viết nguệch ngoạc ba chữ bằng vôi trắng: Tắm lước lóng.
Phòng chỉ có một lối ra vào. Giá vé là 2 đồng, trả trước cho một chị sồn
sồn, hô răng, ngồi gác bên ngoài. Vừa lom khom chui vào, đóng cửa lại, chưa kịp
làm gì, tôi nghe có tiếng nước xối ở gian trong, và dưới ánh nắng lùa qua khe
hở, thấy vắt ngang trên tấm liếp ngăn hai gian một quần tây xanh đậm, và một áo
lụa vàng, có thêu chim cò, kèm theo hai mảnh đồ lót, trên trắng, dưới hồng, rất
“hiện đại”, rất khêu gợi mà, tôi đoán nhanh, chủ nhân chắc chắn không thể là
một trong những “mụ già nhà quê Quảng Ninh” khi nãy. Tôi đang đứng lóng ngóng,
chưa biết phải làm gì, thì từ phía trong vọng ra một giọng Bắc còn trẻ, nhưng
không phải âm hưởng Hà Nội, của một cô chắc đã nhìn thấy tôi qua khe liếp,
trong gian ngoài đầy ánh sáng: “Anh là tù cải tạo hả? Đừng ngại, cứ vô tư cởi quần áo ra, phòng tắm công cộng, ai cũng làm như
thế cả!” Tôi im lặng, vì sợ gặp phải thứ dữ, chứ có gái nhà lành nào cả gan dám
tắm truồng chung đụng như thế, chưa kể tắm xong, làm sao đi ra, nếu gian ngoài
đang có người? Tôi đứng bất động như người trúng gió, căng mắt dòm vào, nhưng
bị bóng tối ghen tuông che kín, không cho thấy chi hết. Sau tám năm thiếu đàn
bà, trí tưởng tượng vụt bay lên, bay cao, bay xa, rạo rực, nhưng cố dằn xuống
kịp thời.
Tôi
múc, bằng gáo, nước từ trong hai cái vò sành, bắt đầu súc miệng. Nước quá lạnh,
buốt thấu răng, và óc, làm tê liệt giây thần kinh thèm muốn. Tôi mở hé cửa
ngoài, thò đầu ra, khiếu nại với chị bán vé. Chị ta trả lời, đúng bài bản, như
quá quen với “sự cố” này: “Bữa lay, nhiều khách tắm quá, bác ạ, đến nượt bác thì lước
lóng hết đột xuất, em đun không
kịp, bác cố gắng khắc phục tắm bằng lước nạnh
hộ em!” Tôi đành rửa mặt, và nhúng khăn lau sơ phần trên, rồi mặc
lại áo, đi ra. Xong một buổi tắm “lước lóng”. Tại thủ đô nước CHXHCNVN, năm
1983. Không biết bây giờ phòng tắm dã chiến bên hông ga Hàng Cỏ ngày ấy có còn
không.
3) Vì thời gian chờ xe lửa quá lâu,
theo đề nghị của anh em, trưởng đoàn tù binh, trung úy người Huế –được bầu một
cách “khẩn trương” do nhu cầu công vụ– xin cán bộ cho phép anh em đi “tham
quan” Hà Nội mùa xuân. Hai cán bộ “hội ý” với nhau, và chấp thuận, với điều
kiện không đi xa và phải trở lại ga trước 7 giờ tối, ai trễ sẽ bị bỏ lại, ráng
chịu. Lúc đó mới 11 giờ trưa. Tất cả hồ hởi phấn khởi xuất quân. Một vài anh em
già, yếu, bệnh, mệt, ở lại nhà ga, và tình nguyện giữ hộ các túi xách với lời
bảo đảm sẽ được “đền ơn bội hậu” khi anh em đi chơi về.
Tôi
rủ ba người bạn khá thân cùng đội tù K1 đi chung, trong số có một ông Thiếu tá
già Tiếp Liệu Bộ Tổng Tham Mưu, cởi mở, chính gốc Hà Nội, nói năng lúc nào cũng
từ tốn, chậm rãi, rề rà, nghe sốt cả ruột. Vừa rời sân ga, ông Thiếu tá bỗng
dừng lại, vẻ mặt đăm chiêu, mắt ngó ngang ngó dọc, chỉ chỏ cho ba chúng tôi,
không phải dân Bắc kỳ, và nói:
- Hồi
năm 1954, nhà tớ ở gần ga Hàng Cỏ này, trong khu Hàng Bông - Thợ Nhuộm, tức
phía Cửa Nam. Không biết căn nhà có còn đấy không.
Rồi
ông dẫn cả bọn đi loanh quanh, và cuối cùng chui vào một dãy phố, đối diện ga.
Những túp nhà chạy dọc theo con phố đều cũ mèm, mái đã rêu phong với những viên
ngói lung lay, như răng bà lão, không biết bay theo gió lúc nào, tường vôi lâu
ngày loang lổ thành màu trắng đục, có chỗ lòi ra một lớp gạch xám xịt. Phía
trước là những hiệu buôn, được ông thiếu tá gọi là “hàng”, thấp lè tè, bước vào
sơ ý là bị đụng vỡ đầu, nối liền với những “căn hộ” phía sau, cao hơn, lớn hơn.
Sau một phút lưỡng lự, ông bước vô một gian “hàng”, không biết tên gọi là gì, có
lẽ hàng Giày, vì bán toàn giày dép. Nghe ông kể, khi cả gia đình ông leo lên
tàu há mồm vào Nam, thì, dĩ nhiên, cửa hiệu bán guốc và nhà ở của gia đình ông
bị tịch thu, và đổi chủ. Chủ mới, không biết mấy đời rồi, là một anh trung
niên, nói tiếng Quảng Bình giả giọng Bắc, lịch sự hỏi: “Các bác muốn gì ạ?” Ông
thiếu tá già cười, mà như mếu, theo nghĩa hoàn toàn đen, vì tám năm dài đằng
đẵng trong tù bạn bè đã bẻ giùm ông, bằng những sợi chỉ bện lại, mất hết năm
răng cửa và hai răng hàm: “Trước năm 1954, tôi đã ở nhà này”, ông trả lời. Rồi
xin ra phía sau để nhìn lại nó, và kể hết đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong thiên
tình sử, anh chủ mới mủi lòng, ân cần mời ông chủ cũ lên cầu thang gỗ thăm lại
căn nhà của chính ông.
4) Ba thằng
chúng tôi, hai Nam kỳ, và một Trung kỳ, không có dây mơ rễ má gì với cố đô Hà
Nội, hay tàu há mồm, xin rút lui, để mặc ông thiếu tá già thoải mái đi tìm
thời gian đã mất, như văn sĩ Pháp Marcel Proust. Lúc ấy có hai đồng tù trẻ,
khác K, xin nhập bọn. Tiếp tục dạo phố. Vừa đi tôi vừa quan sát, ngắm nhìn
thiên hạ, vừa nghĩ đến những giai nhân Hà Thành trước kia, mà suốt bao năm tôi
đã ấp ủ trong tim bóng hình thướt tha và giọng ca vàng đầy chất Hà Nội được
phát thanh trực tiếp trên các làn sóng Sài Gòn. Hay lãng mạn, hư cấu hơn, những
nữ nhân vật có học, duyên dáng trong tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng –mà
khung cảnh đều là Hà Nội của những thập niên 30, 40. Và, trên hết, các công
chúa Mỵ Châu, Lý Chiêu Hoàng, Trần Huyền Trân, Lê Ngọc Hân của Thăng Long nghìn
tuổi, mang kiếp hồng nhan bạc phận trong thực tại lịch sử, đã làm ngây ngất trí
tưởng nơi người hậu thế “khéo dư nước mắt khóc người đời xưa” (Kiều),
như những giấc mơ huyền thoại quyến rũ, dị kỳ.
Những cô gái, gọi là Hà Nội,
dưới thời Việt Cộng, mà hôm nay tôi mới được diện kiến trực tiếp, thấy khác lạ
quá đỗi. Đã thiếu nhan sắc, và thước tấc, mà lại kênh kiệu, nói năng cộc lốc, không bao giờ được học và nói hai chữ
“cám ơn” và “xin lỗi”.
Mặc áo sơ mi nhét trong quần tây, theo mốt hiện hành, bỏ chiếc áo dài cổ
truyền, và chân đi “sa-bô” (sabot?), danh từ tôi mới nghe lần đầu, tức loại
giày nhựa, bịt kín phía mũi, gót để trống, đế rất cao, như một thứ dép tân
thời, thay cho “thanh bình tiếng guốc reo vui” ngày xưa của nhạc sĩ
Hoàng Dương. Lại còn giọng nói nữa. Lạ lắm, trời ạ! Tiếng Hà Nội gì mà nghe như
pha với giọng Nghệ An của “Bác”, hay Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Quảng Bình. Những dấu
sắc, huyền, nặng, hỏi, ngã phát ra lung tung, loạn xạ, tùy tiện. Nghe chua lè,
còn hơn giấm. Bởi thế, khi giọng nói Hà Nội ấy bay vào Miền Nam, sau cuộc đổi
đời, người dân Sài Gòn nhận ra ngay sự khác biệt rõ rệt giữa hai thứ tiếng Bắc
kỳ, (19)54 = 9 nút, của Kim Tước, Thái Thanh… và Bắc kỳ, (19)75 = 2 nút, rất lơ
lớ, chói tai, của những ca sĩ trẻ, từ Hà Nội, ồ ạt Nam tiến, rồi sau đó và bây
giờ, thừa thắng xông lên, xâm nhập luôn những Cộng đồng Việt Nam tỵ nạn tại Mỹ,
vô tình hay hữu ý thực hiện chủ trương “giao lưu văn hóa” của VC, tiếp tay bởi
tên nhà văn MC thò lò hai mặt. Về dung nhan, các ca sĩ ấy vượt trội những cô
gái mà tôi đã gặp tại Hà Nội năm 1983. Nhưng giọng nói “2 nút” chua lè thì vẫn
y chang.
5) Lang thang mãi, mỏi chân, và đói
bụng, chúng tôi tắp vào một quán phở, không xa ga Hàng Cỏ là bao. Ba cô gái
“phục vụ” (chạy bàn), mặc đồng phục, sơ mi và quần tây, đứng ở quầy hàng, thấy
năm ông khách quý bước vào, trơ mắt ngó, không thèm chào mời. Và phớt lờ, tiếp
tục trò chuyện với nhau. Quán lúc ấy không có ai ngoài năm đứa tôi.
Chờ
lâu, một anh, cựu trung úy Biệt Động Quân, người Nam hiền khô, nhưng tướng rất
ngầu, da ngăm ngăm đen, nói năng bạt mạng, lại ngọng nữa, sốt ruột, lớn tiếng
hỏi:
- Nè,
bộ mấy bà chê tụi tui không tiền hay sao mà không ai ga (ra) tiếp dzậy?
Một
cô trả lời, giọng Bắc the thé như lai tiếng Thanh Hóa, Nghệ An:
- Ăn
gì thì đến quầy mà gọi.
Anh
BĐQ đứng lên, khệnh khạng tiến tới quầy, hai tay thọc trong hai túi quần. Tôi
bước theo, sợ to chuyện, và nhắc nhở “tụi mình vẫn còn là tù binh, chưa được
phát giấy ra trại”. Anh hiểu, và nói một hơi:
- Cho
tụi này năm tô phở bò tàu bay Hiền Vương, tái, chín, nạm, gầu, gân, sách, nước
béo, giá trụng, hành trần, chanh, ớt, tương đen, ngò gai, nhiều bánh, nghe kịp
không?
Ba cô, dĩ nhiên, nghe sao kịp, không hiểu, hay chỉ hiểu lõm bõm,
trợn tròn mắt, tưởng anh nói tiếng Ấn Độ. Một cô, có lẽ tổ trưởng, xẵng giọng:
- Đây
là cửa hiệu quốc doanh. Chỉ có một loại phở mà thôi, không có thứ gì khác. Rõ
chưa?
Anh
quay nhìn tôi, rồi ngó thấy cô “chằn” quá, liền xuống nước:
- Gõ
gồi (rõ rồi). Ờ, thì cô bán cho năm tô đi. Và năm chai bia.
-
Không có bia chai, mà chỉ bia “bốc” thôi.
Anh
lại hỏi:
- Bia “bốc” là bia gì dzậy?
- Là bia
hơi rót từ cái bình thủy tinh lớn kia, ông cụ nội ạ, chứ còn là bia gì
nữa?
Tôi cười cười, cố tình nói đùa cho
tình hình bớt căng thẳng:
- Nghĩa là chưa uống nó đã “bốc hơi”
bay đi hết, phải không cô?
Nhưng
cô quốc doanh nguýt tôi, rồi lườm anh BĐQ, mắt tóe lửa, như muốn nhai tươi nuốt
sống hai thằng. Và bảo “trả tiền trước đi đã”, tổng cộng cả bia lẫn phở cho năm
tên “ngụy” là 50 đồng.
Hai
thằng trở lại bàn. Ngồi chờ mãi, gần nửa tiếng, mà phở, bia chưa thấy mang ra,
anh lại bực bội, gõ chiếc muỗng vào cái ly nghe leng keng, rồi nói lớn:
- Sao lâu quá gồi mà không thấy ai bưng phở, đem bia ga dzậy cà?
Cô
“tổ trưởng” từ quầy cũng to tiếng, đáp lễ:
- Đến
đây mà bê ra, không ai hầu cho đâu!
Cả
đám bật đứng lên, bước đến phía quầy, thấy một lô tô phở, không nước, làm sẵn
đồng loạt từ lâu, nằm chình ình trên một cái khay lớn. Nghĩa là khách địa
phương, rành thủ tục, chỉ có việc đến quầy trả tiền, lúc đó các cô “phục vụ”
mới đổ nước lèo nóng vào, rồi tự động ai nấy bưng tô phở ra bàn. Phở lơ thơ vài
cọng rau, chỉ có một lát thịt bò thái mỏng như lưỡi lam cạo râu, sẵn sàng bay
theo cơn gió vô tình lướt qua. Nước phở còn nhạt hơn nước ốc. Bia “bốc hơi” thì
khỏi nói: không khác chi nước trà lên men.
Ăn
uống tạm no, nhưng còn ấm ức, anh trung úy BĐQ rút điếu thuốc Điện Biên ra hút,
mơ màng nhả khói, như triết gia Jean-Paul Sartre trên vĩa hè Paris, rồi than
nhỏ với tôi: “ĐM.
Cái gì cũng quốc doanh, không khá nổi. Phở, bia, hay cha, thầy, sư quốc doanh
gì cũng đều cà chớn gáo (ráo) trọi”.
Ra
đường, gặp một toán khác đi ngược chiều –khoe vừa mới nhậu thịt chó xong. Hỏi
ngon không, thì một anh hậm hực trả lời: “Ngon gì mà ngon. Thịt chó quốc doanh
chỉ có độc mỗi món luộc chấm với mắm tôm, không ớt, mùi tanh lắm. Nhưng lỡ trả
tiền rồi, cũng phải ráng nuốt thôi. Thịt chó Hà Nội gì mà bết bát hết sức, thua
xa thịt chó Hố Nai”.
IV. Rồi năm đứa chia tay nhau, đường ai
nấy đi, hồn ai nấy giữ. Hẹn trở về ga Hàng Cỏ trước 7 giờ tối, hoặc sớm hơn.
Còn ít nhất bốn tiếng nữa để mà giết. Làm gì cho hết nửa ngày nữa?
Tôi
nẩy ý muốn đi xem phong cảnh Hà Nội. Bèn vẫy một chiếc xích lô. Phu xe là một
thanh niên trên ba mươi, tên Tứ, dáng dấp khỏe mạnh, nói nhiều, giọng Bắc Khu
Tư (Vinh). Tôi thương lượng:
- Anh
chở tôi đi chơi vòng vòng xem cho biết Hà Nội, cứ đạp từ từ, đến chỗ nào cũng
được, tùy ý anh, trong ba tiếng, rồi chở tôi trở lại ga Hàng Cỏ trước 7 giờ.
Anh lấy bao nhiêu?
Anh
mau mắn đáp:
- Dạ, bèo lắm thì cũng 40 đồng đấy
anh ạ…
Tôi
vừa ngồi lên nệm xe, anh đã đề nghị đi Hồ Hoàn Kiếm trước. Hà Nội đang còn mùa
xuân, hai bên đường hoa nở rộ, thắm tươi. Những cành đào nặng trĩu hoa, rực rỡ
một màu đỏ hồng, cong xuống, la đà theo gió. Thấy tôi mải mê ngắm nghía một
cách thích thú, Tứ góp chuyện:
- Còn một loài
hoa nhỏ, chỉ nở từ tháng 3 đến cuối tháng 4, tức tháng này, trắng xóa ven
đường, lại tỏa hương thơm nhè nhẹ. Tuyệt vời, anh ạ. Đó là hoa sưa... Đấy, anh
ngắm đi, kia kìa, đúng là một cảnh tuyết, giống ở Sapa...
Tôi hỏi lại:
- Hoa sưa hay hoa sữa?
- Dạ sưa. Du khách Sài Gòn ra, ai cũng lộn.
Dọc đường, ít thấy xe hơi, xe gắn máy hay bộ
hành qua lại. Du khách ngoại quốc, hay Việt kiều, cũng vắng. Một thủ đô đang
hấp hối hay đang ngái ngủ, tôi có cảm tưởng, lạc hậu nhất trên hành tinh này. Lãnh đạo tự phong toàn là một lũ
thất học, ngu đần, lúc bấy giờ còn say men chiến thắng, còn bận nhiều việc: trả
nợ cho hai nước “anh em vĩ đại”, Liên Xô và Tàu Cộng, trả thù người chế độ cũ,
lùa hàng trăm ngàn tù binh “ngụy” vào rọ “học tập cải tạo”, đày dân đi vùng
kinh tế mới để cướp nhà của họ, vơ vét và chia chác của cải từ Miền Nam khuân
ra Bắc, khoác lác khoe khoang với thế giới rằng “VN đã đánh thắng hai đế quốc
đầu sỏ, Pháp và Mỹ”, và “VN chúng tôi có quá nhiều anh hùng, vừa ra ngõ là gặp
anh hùng”... Nên chúng chưa có kế hoạch phát triển kinh tế, làm cho đất nước
giàu mạnh.
Xích lô chạy một hồi, đến hồ Hoàn Kiếm lúc
nào không hay. Tôi bước xuống, đi bộ lên thảm cỏ xanh. Những nhánh liễu ven hồ,
rũ xuống, tàn lá lưa thưa, không đủ “che nửa mặt hoa” (Bạch Cư Dị) của những cô
gái trẻ ngồi tâm sự bên tình nhân, trên ghế đá. Tôi thấy họ có vẻ ngượng nghịu,
lúng túng đến tội nghiệp khi nắm lấy tay nhau, nói chi ôm nhau, hôn nhau.
Thương cho họ. Và ở một cảnh ngộ khác, thương cho chính tôi và những chiến hữu
bất ngờ trở thành tù binh, không kịp hẹn trước với Định Mệnh, vừa đứng trước
cổng trại giam là đã phải bỏ lại tất cả: quá khứ, vị lai, tình yêu, ước mơ, và
thảm não hơn, hy vọng. Dường như những cặp tình nhân này mới dưới quê lên thành
phố, hoặc vừa được Bác và Đảng “cởi trói” cho phép yêu nhau, sau tám năm “chiến
thắng” Miền Nam, trong khi Bác và bè lũ, những con yêu râu xanh thời đại, tha
hồ “đồi trụy”, vợ nọ con kia, mà mồm cứ phun ra những lời sặc mùi đạo đức giả.
Những tia nắng lấp lánh đuổi nhau trên mặt
hồ. Nhìn xa thấy màu nước đẹp lung linh, xanh như một tấm thảm rêu trải dài.
Gần bờ, trái lại, nước hồ quá bẩn, có chỗ lềnh bềnh những rác rưởi, giấy báo,
bao ni lông, lon, ca, cóng do ai vứt xuống bừa bãi, tắt nghẽn, không trôi đi
được. Trước kia, tôi đã đọc trong một quyển tiểu thuyết và nghe các ông bạn lớn
tuổi, chính gốc Hà Nội ba mươi sáu phố phường, kể rằng quanh bờ hồ Hoàn Kiếm
thời trước 1954, sạch sẽ lắm, là nơi tụ họp vui chơi cuối ngày, và cuối tuần,
của đông đảo dân Hà Thành, có những kiosques bán kem và lạc rang húng
lìu nóng dòn, có giọng ca nhí nhảnh của Joséphine Baker phát ra từ đĩa nhạc
xưa, “J’ai deux amours: mon pays et Paris...”, nhưng bây giờ, đứng đấy,
tôi không nghe, không thấy gì hết. Cũng như, theo lời Tứ kể, ở Hồ Tây, mà anh
ngại xa không muốn chở đến, không còn những chiếc périssoires (thuyền
thoi) –mà dân Đà Lạt rất quen thuộc trước 1975, trên hồ Xuân Hương. Hay người
Cộng sản không biết ăn kem Bờ Hồ, không biết nhai lạc rang, không biết nghe
nhạc Pháp, không biết bơi thuyền thoi, cho đó là sản phẩm của Thực dân, Đế
quốc? Vua Lê Lợi nếu sống lại chắc sẽ căm giận lắm về những hậu sinh khả ố, mất
dạy, mê muội hiện tại, nhắm mắt theo đuôi chủ nghĩa Cộng sản khốn nạn. Tôi cầu
xin, khi mùa đông về, mưa bay lất phất, rùa thần nổi lên mặt hồ, cho ngài mượn
lại thanh kiếm báu để chém bay đầu bè lũ chúng nó, như trưóc kia đã chém bay
đầu Liễu Thăng và giặc Minh...
Rời hồ Hoàn Kiếm, Tứ chở tôi dạo một vòng Bưu
điện gần đó, là một tòa nhà đồ sộ xây theo lối Tây, và xa hơn, những “phố”
(thực ra là những con đường) Huế, Tràng Tiền, Hai Bà Trưng... mà tại mọi góc
đều có Công An đứng gác, súng ống trang bị đến tận răng, mắt cú vọ nhìn gốc cây
nào cũng thấy “phản động”, mặc dù đất nước đã thanh bình lâu rồi.
Khi tôi ngỏ ý muốn đi thăm Văn Miếu - Quốc
Tử Giám, Tứ lẩm nhẩm tính:
- Đến Văn Miếu thì phải vòng trở lại ga Hàng
Cỏ, qua phố Hàng Lọng, theo phố Sinh Từ...
Tôi cắt ngang:
- Anh có nói, tôi cũng chẳng biết phố nào là
phố nào. Thôi, tôi nhắm mắt để anh chở tôi đi đường nào cũng được.
Như tên gọi, đó là một khu “miếu” lớn,
với lối kiến trúc cổ xưa, từ thế kỷ XV, trang nghiêm, thanh nhã, gồm một gian
thờ Khổng Tử và môn đệ, một lầu vuông tám mái gọi là Khuê Văn Các, nơi bình thơ
của các sĩ tử, cạnh giếng Thiên Quang mà hai bên tả, hữu thấy dựng hai hàng bia
đá khắc tên tám mươi hai vị đỗ tiến sĩ, qua các triều đại. Trên cổng ngoài cùng có vẽ hình hai con cá
chép theo điển tích “cá vượt vũ môn”, ngụ ý người học trò đi thi được ví như cá
chép phải vượt ba đợt sóng dữ, tại cửa sông, mới biến thành rồng, chỉ sự thành
công tột bực. Chứ không phải, tôi nghe ai kể, các thí sinh thích ăn cá chép,
theo cách hiểu của đa số học sinh XHCN bây giờ. Bước đi, tôi thấy người bỗng
thoát trần, xa rời tục lụy và thực tế tối đen, xấu xí hiện nay, để lòng nhẹ
tênh. Như bay bổng trong không gian và thời gian lồng lộng. Như nghe tiếng
thiết tha gọi vê từ đáy Hôn Dân Tộc thanh cao của bốn ngàn năm văn hiến và từ
những trang Sử Việt oai hùng qua bao dòng đời hưng phế, với Trưng, Triệu, Ngô,
Đinh, Lý, Trần, Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn... những triều đại bị bọn “đỉnh cao trí
tuệ” Trường Sơn chê là phong kiến, lạc hậu, độc tài, mà người dân vẫn được tự
do đi lại, vẫn được ăn no mặc ấm, vẫn được vua chúa thương yêu như con, vẫn
được học hành đến nơi đến chốn theo truyền thống nhân bản, vẫn được gọi mời
tham gia vào công cuộc trị nước và giữ nước. Mà những tiến sĩ, đang hiện
diện trong Văn Miếu kia, được vinh danh và trọng vọng nhờ vào thực tài, đức
hạnh, chứ không bởi văn bằng dỏm, văn bằng lậu, văn bằng tậu được do
tiền bạc và mánh mung, như trong thời kỳ đồ đá, đồ khỉ, đồ đểu hiện nay...
V. Từ giã Văn
Miếu, thấy còn dư một tiếng, tôi đề nghị Tứ chở đi xem giếng ngọc của Trọng
Thủy và Mỵ Châu –mà chuyện tình diễm ảo và bi thảm đã ám ảnh, mê hoặc hồn tôi,
từ lúc còn trẻ cho mãi đến bây giờ, hơn bất cứ chuyện tình diễm ảo và bi thảm
nào trong văn chương thế giới, kể cả Tristan et Iseut hay Romeo
and Juliet. Tứ đáp:
- Xa lắm anh ạ, tận mãi Cổ Loa, quận Đông
Anh, phía Bắc, cách Hà Nội 16km, không đi xích lô được, vả lại không kịp giờ
lên xe lửa đâu.
Đành trở lại ga Hàng Cỏ, trước giờ qui định.
Trao tặng những anh giữ-hộ-viên-túi-xách một bịch chuối ép khô mua tại cửa Bưu
điện, và kể sơ về chuyến du hành bằng xích lô. Hai cán bộ đã có mặt. Rồi lục
tục, các đồng tù trở về “trình diện” kịp, hay trước, giờ, vì không ai dại, làm
lỡ chuyến tàu xuôi Nam. Đúng 8 giờ tối, tất cả lên tàu, ngồi trong một toa, do
“trên” (nhà nước) dành riêng, sau khi cán bộ đọc tên và phát cho từng người
giấy ra trại, kèm theo lời dặn dò, hay mệnh lệnh chót, “các anh nhớ thi hành tốt lệnh quản chế địa
phương, và phấn đấu làm ăn tốt, xây dựng xã hội chủ nghĩa, đừng trốn chạy ra
nước ngoài”. Hai tên cán bộ ở lại ga, và chúng tôi hoàn toàn tự do,
từ đây, ít ra trong đêm đó.
Tàu khởi hành trễ nửa giờ. Chạy khoảng một
tiếng thì ngừng lại tại một ga nhỏ, đón khách “nhảy tàu” (buôn bán lậu trên xe
lửa) ra Bắc và trở vào Nam. Đa số là phụ nữ Miền Nam, còn trẻ, biết có một toa
tù cải tạo được thả, họ đem hàng đến gửi, nhét đại phía dưới ghế ngồi, vì qua
kinh nghiệm, tin rằng công an không bao giờ vô lục khám. Chúng tôi thông cảm,
để mặc, và ngược lại họ mua bánh trái đãi đằng để trả công ơn đồng lõa. Vài
người, mà thân nhân còn trong tù cải tạo, đứng nán lại, hỏi han, tâm sự. Và bất
ngờ, tôi được biết trong số có một chị là vợ của một trung úy, đồng đội K1,
không được thăm nuôi, đói, nhưng rất có bản lĩnh, tư cách. Tôi nói nhỏ với chị:
- Ảnh đói lắm. Chị ráng thu xếp ra thăm ảnh
một chuyến.
Chị bật khóc, nước mắt đầm đìa, trả lời:
- Em biết. Và thương ảnh lắm. Nhưng
nhà nghèo quá, phải nuôi đàn con nhỏ nữa. Khi nào dành dụm được chút ít, chắc
chắn em sẽ ra thăm ảnh.
Cảm động, tôi móc từ túi quần được một nắm
tiền, chừng hơn 100 đồng của trại trả lại, kín đáo đưa tặng chị, nói để “mua
quà cho các cháu”. Chị không nhận, và vì tế nhị, tôi không nài ép. Cách đây hai
năm, tình cờ tôi gặp lại anh chị –qua Mỹ theo diện HO, và làm ăn khá giả, con
cái thành đạt– tại nhà một người bạn chung. Sau ba mươi năm, chị nhìn tôi, xa
lạ, không nhận ra là ai, và tôi cũng không nhắc gì về chuyến tàu đêm năm cũ ấy.
Tàu chạy thâu đêm, qua những địa danh lịch
sử, tôi chỉ nghe nói đến mà chưa hề thấy tận mắt, như Hà Tĩnh, quê hương tuổi
nhỏ của đại thi hào Nguyễn Du. Hay Quảng Bình, nơi sinh quán của Tổng thống Ngô
Đình Diệm, với Đèo Ngang nổi tiếng trong thơ Bà Huyện Thanh Quan và sông Gianh
phân chia ranh giới Bắc Nam giữa quân Trịnh và quân Nguyễn, thế kỷ XVII. Khi
đến Cửa Tùng, An Du Tây, Quảng Trị, quê nội tôi, trước khi tàu qua cầu Bến Hải,
tôi nhìn chăm chú ra ngoài, như một phản xạ, nhưng không thấy gì cả ngoại trừ
một vùng đồng ruộng tăm tối, bao la. Tự nhiên, một cảm giác xa lạ, trống vắng
xâm chiếm tâm hồn. Và thấy đắng chát trong cổ họng... Bởi một nơi không
đến bao giờ, và không có một chút kỷ niệm, dù là quê cha đất tổ, cũng chỉ là
một chấm đen trên bản đồ. Tôi gục đầu xuống thành cửa sổ, muốn khóc.
Bỗng nhớ ba tôi quay quắt, đã mất không lâu trước đó, mà tôi không được gặp
mặt.
Ngược lại, tại sân ga Huế, sáng trưng
ánh đèn, một cảnh sinh hoạt náo nhiệt diễn ra, dù đã quá nửa khuya. Khi những
em bé bán bánh, nước trà bắt gặp chúng tôi ngồi la liệt trong toa đặc biệt,
biết là tù “ngụy” trở về, liền báo động cho những đồng nghiệp lớn tuổi, và một
đám các bà, các o chạy túa đến, reo vui: “Sĩ quan cải tạo về kia tề, anh mô
cũng đẹp trai hết, không như mấy cha bộ đội. Thấy các anh cực khổ mà thương chi
lạ!”. Vài anh thò đầu qua cửa sổ mua bánh, chuối, thịt gà chiên, nhưng họ không lấy tiền. Lại còn, khi tàu chuyển
bánh, chạy theo, ném thêm qua cửa sổ...
Sáng hôm sau, tàu ngừng tại ga Nha Trang,
lúc 9 giờ. Tôi thuê xích lô trở về nhà. Xuất hiện tại cửa như một bóng ma hiện
hình. Mẹ và Bội Trân đứng sững giây lâu, rồi cả hai ôm chầm lấy tôi, khóc nức
nở. Tôi hôn lên má, lên tóc Mẹ, và qua vầng trán nhăn nheo và mái đầu bạc
trắng, ngậm ngùi tưởng nhớ dung nhan của Mẹ ngày xưa và tình thương bao la suốt
đời Mẹ dành cho từng đứa con. Tôi nhìn Bội Trân, người em kiều diễm của tôi,
sau ngày đất nước đổi chủ, đổi tên, đã bị trời xanh quen thói má hồng đánh
ghen bắt chịu nhiều nỗi truân chuyên, như người chinh phụ trong Đoàn
Thị Điểm. Ôm em trong tay mà tưởng như ôm một khối tình sầu hóa thân chất ngất,
chưa tan, mà biết rằng em, qua dòng lệ mừng
cho tôi, cũng đang khóc nhớ hôn phu –một phi công, vì em không đi, đã ở lại Sài
Gòn sáng 30 tháng 4, để bây giờ vĩnh viễn gãy cánh, nằm xuống tại một nơi nào
trong trại tù Thanh Phong. Bởi em buồn, tủi phận, tôi cũng thấy hồn mình nát
tan, không muốn bộc lộ nỗi vui được thả, không muốn kể gì về những trại tù đã
đi qua... Xem tất cả như một chương đời khổ nạn khép lại, một cơn ác mộng phải
quên. Cho riêng tôi, và cho giùm em gái và những người vợ tù khác.
VI. Ba mươi hai năm
qua, kể từ ngày ấy. Biết bao nhiêu chuyện đời xảy đến. Từ Mỹ, tôi đã đi thăm
nhiều thủ đô lớn, nhỏ trên thế giới. Nhưng vẫn không sao quên được hình ảnh Hà
Nội tuyệt đẹp, mà tôi đã gặp trong sử sách, cùng với hình ảnh cố đô Thăng Long
cổ kính và huyễn mộng qua hàng chục thế kỷ chiến tranh giữ nước. Thăng Long,
hay Hà Nội. Của một Phù Đổng Thiên Vương đại phá giặc Ân, rồi cưỡi thiết mã bay
về trời. Của một Lý Thường Kiệt đứng trên sông Như Nguyệt, sang sảng ngâm bài
thơ, được xem là bản tuyên ngôn đầu tiên về chủ quyền quốc gia Việt Nam, cách
đây mười thế kỷ, độc đáo nhất, quyết liệt nhất: “Nam
quốc sơn hà Nam đế cư / Tiệt nhiên định phận tại thiên thư / Như hà nghịch lỗ
lai xâm phạm / Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư...”, trước khi xuất
trận đánh tan quân xâm lược. Của một Trần Nhân Tông và các bô lão trong Hội
Nghị Diên Hồng, đồng thanh quyết chiến đến cùng. Của một Trần Hưng Đạo với
câu nói, có một không ai trong lịch sử nhân loại về sự hy sinh tột
độ cho đất nước: “Bệ hạ muốn hàng,
xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng” –là danh tướng duy nhất trong quân sử thế
giới đã đánh bại đế quốc Mông Cổ (tức nhà Nguyên), hùng mạnh nhất lúc bấy giờ,
bách chiến bách thắng, mà vó ngựa đã giẫm nát toàn cõi Đông Âu, Nga, Trung Đông
và Đông Nam Á. Của một Trần Bình Trọng, bị
bắt, với thái độ hiên ngang, ngẩng cao đầu trước địch quân: “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương
đất Bắc”. Của một Lê Lợi với hơn mười năm kháng chiến nằm gai nếm
mật. Của một Nguyễn Trãi với chính sách thu phục
nhân tâm diệu kỳ, “Lấy trí nhân thay
cường bạo”. Của một Nguyễn Huệ với những chiến thắng mùa xuân thần tốc
lẫy lừng. Của một Hoàng Diệu, tổng
đốc trung liệt, đã tuẫn tiết cùng chết với thành Hà Nội. Của toàn dân, qua các triều
đại, đã sát cánh với vua, quan, tướng lãnh đánh
đuổi bọn Đại Hán xâm lược, mà dù là Ân, Ngô, Tống, Nguyên, Minh, Thanh xưa kia,
hay Mao (Cộng) ngày nay –tất cả đều là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc.
Cũng như tôi không sao quên được hình ảnh, ngược lại, điêu tàn của một Hà Nội
mà tôi đã gặp vào một ngày mùa xuân 1983, cổ lỗ và rách nát trong tay giặc Việt
Cộng. Dưới sự thống trị của bọn lãnh đạo ma đầu thay nhau tự phong, ngu dốt,
tham tàn, phản bội dân tộc, rước voi về giày mả tổ, thấy kẻ thù là run như cầy
sấy, nhưng đối với dân thì hung bạo, đánh đập, bắn giết, bỏ tù. Hà Nội trong
mắt tôi, ngày xuân ấy và nhất là bây giờ, dưới xích xiềng giặc Việt Cộng, chỉ là
thủ đô của hận thù, của hạ tiện, của xảo trá, của băng hoại về mọi giá trị đạo
đức, xã hội, giáo dục, kinh tế, an sinh và lương tâm. Chỉ là biểu tượng
của một đất nước mà dân nghèo phải đầu tắt mặt tối, bươn chải kiếm sống, mà học
sinh phải đu dây qua sông để đến trường, mà dân giàu lo ăn chơi, trụy lạc, say
xỉn, mà tướng tá và công an được mua bằng tiền, tự biến thành chó ngựa, cung
cúc phục vụ chế độ phi nhân, mà tất cả, trong những hoàn cảnh sống khác nhau
như thế, cũng đều quên đi nhiệm vụ cao cả do tiền nhân giao phó: đứng lên chiến
đấu giữ nước, trước hiểm họa Bắc thuộc do Tàu Cộng đang mưu toan với chiến
thuật mới, mềm dẻo hơn, tinh vi hơn, nghĩa là bằng chính tay những thằng lãnh
đạo Việt Cộng.
Hà Nội ấy, một lần đi qua, tôi sẽ không bao giờ trở lại, dù chỉ một giờ, một phút,
nếu tổ quốc Việt Nam yêu dấu chưa sạch bóng nội thù Việt Cộng, nếu người dân
chưa, hay chưa thể, đứng lên tiêu diệt bọn lãnh đạo bây giờ, và ném vào sọt rác
lịch sử cái chủ nghĩa Cộng
sản quái thai, quái dị, quái đản, đã ngự trị từ hơn ba phần tư thế kỷ trên đất
nước tang thương, bất hạnh này –đã vô phúc sản sinh
ra một tên Nguyễn Tất Thành, tức Hồ Chí Minh, còn bỉ ổi, ghê tởm hơn Trần Ích
Tắc, Lê Chiêu Thống.
VII. Khát
vọng và ước mơ tuyệt vời đó về một Việt Nam tương lai phi Cộng sản, tôi lo, khó
thành hiện thực cho tôi và những ông bạn chiến binh già, trong cuộc đời này. Thời gian vô tình cứ trôi đi, và bóng đời cứ nghiêng đổ,
mà giật mình ngoảnh lại, thấy chưa làm gì được cho đất nước thân yêu còn mãi
quằn quại trong nanh vuốt Việt Cộng. Có thể không kịp nữa. Họa may, kiếp
sau. Nếu Thần Chết không bắt chúng tôi bỏ lại tất cả mọi hy vọng, khi
bước qua bờ tử sinh. Và nếu trong Inferno, thi hào Dante cũng tha, cho
những kẻ đứng trước cửa địa ngục, hình phạt nặng nề nhất, tức là phải mang theo
mối tuyệt vọng đời đời. Lasciate ogni speranza voi ch’entrate (Hãy vứt bỏ tất cả hy vọng, hỡi các ngươi
đang bước vào, iii,1).
Portland, 1 tháng 2,
2016
Kim Thanh
Subscribe to:
Posts (Atom)